(Chủ nhật, 27/07/2025, 07:01 GMT+7)
Truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh, đăng báo vào tháng 11 năm 1956, không chỉ làm nên tên tuổi của Phùng Cung (1928-1997), mà đến hôm nay, nó vẫn thường xuyên được nhắc đến như trường hợp điển hình về một văn bản nghệ thuật bị đặt vào những quy chiếu, diễn giải ngoài văn chương. Tuy thế, tác phẩm này vẫn còn đó sự mời gọi tái diễn giải, trước tiên và thú vị hơn cả, thậm chí đầy thách đố, về tình thế của con ngựa, nhân vật chính trong tác phẩm, một tình thế mà chúng ta có thể hình dung đến nỗi bất an, sự chất vấn của con người về cách sống, sự lựa chọn giá trị trong bất luận thời đại xã hội nào.
 
1. Khi Phùng Cung xây dựng nhân vật chính là con ngựa, hẳn ông đã ý thức rõ, rồi hoàn hoàn toàn làm chủ một kỹ thuật viết văn theo tôi là căn bản bậc nhất trong kiểu sáng tác này: tạo ra các liên tưởng. Văn chương kể về loài vật, như ở truyện ngụ ngôn hay cổ tích chẳng hạn, vừa phải cho độc giả nhìn thấy cái thế giới riêng khác của loài vật, nhưng đồng thời, phải cung cấp nhiều điểm tương đồng, có khả năng gợi liên tưởng đến xã hội con người. Loài vật, như thế, luôn được nhân hóa, bị xóa mờ dần đặc tính gốc của loài để khoác lên mình các đặc tính người. Nói cách khác, người kể chuyện mượn con vật để biểu đạt cái nhìn, cảm quan của mình về nhân tình thế thái, hoặc đôi khi, để biểu đạt chính thế giới nội tâm vốn dĩ khó bộc bạch của mình. Vào thập niên 1940, khi truyện ngắn Việt Nam bứt phá đạt thành tựu, nhiều nhà văn tỏ ra ưa thích và có sở trường sử dụng cách viết này. Dạng truyện đồng thoại của Tô Hoài hay các truyện mang màu sắc hoang đường của Lan Khai trong tập Truyện đường rừng (1940) đều thu hút độc giả. Riêng với Lan Khai, ông có phần phức tạp hơn khi chủ ý nhấn mạnh văn bản của mình như là sản phẩm được kể lại (Người lạ, Ma thuồng luồng), được chắt ra từ thần tích, sự tích (Con thuồng luồng nhà họ Ma, Mũi tên dẹp loạn, Gò thần) để thuận bề nghiền ngẫm, giải thích thực tại. Hướng đi này, về sau, phần nào trở lại trong cách viết của Nguyễn Huy Thiệp ở tập Những ngọn gió Hua Tát (1989). Gần giống Lan Khai, Nguyễn Huy Thiệp cũng tái dụng địa danh, tộc danh, thiên nhiên và tập tục miền núi để tạo dấu vết “có thật” bao quanh các con thú/con vật vốn gần gũi nơi miền sơn cước. Một thiên truyện xuất sắc khác của Nguyễn Huy Thiệp, Muối của rừng (1987), còn có hẳn gia đình bầy khỉ dám chống trả, kháng cự quyết liệt trước sự tấn công của ông Diểu, khiến ông Diểu phải ngộ ra những giới hạn, bất khả của con người khi chinh phục thiên nhiên.
 
Nhìn lại vài tác phẩm này, chúng ta thấy kỹ thuật tạo liên tưởng, tạo các biểu tượng thường được nhà văn ẩn giấu trong một vài tình huống đối nghịch, đối lập giữa thiện và ác, thú tính và nhân tính, chiến thắng và thất bại, sự thật và giả dối… Trong tư duy viết văn hiện đại, sự đối nghịch này có lẽ càng hữu dụng để nhà văn được dịp thể hiện cái nhìn đa chiều, cá tính và thái độ dân chủ của mình. Họ chọn tình huống để lật trái lật phải, để dẫn dắt vấn đề hoặc cùng người đọc nhìn ra vấn đề phức tạp, khó nắm bắt đến mức nào, thay vì đích đến đã chọn sẵn. Khi Phùng Cung viết Con ngựa già của chúa Trịnh, nhìn chung, bối cảnh văn nghệ văn hóa kháng chiến ở miền Bắc tuy đã cơ bản nhất quán, đã “nhận đường” xong xuôi, nhưng một vài tiếng nói sinh động, đa chiều vẫn còn đó. Và Phùng Cung cất tiếng bằng cách chọn tình huống đối nghịch.
 
Con ngựa già của chúa Trịnh dường như được tác giả tung hỏa mù nhờ một vài chi tiết xác thực trước khi đẩy nó vào hướng mờ hóa. Đầu tiên, là những địa danh gắn với bối cảnh câu chuyện: Sơn Tây, Thăng Long. Thứ nữa là “chúa Trịnh”, danh xưng chỉ thiết chế chính trị đã từng kiểm soát, lũng đoạn quyền lực Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Truyện cũng nhắc đến “trận quần chiến bên bờ sông Gianh” tuy không cụ thể nhưng vẫn đủ sức gợi nhớ thực tế lịch sử gắn với nhà Trịnh. Những chi tiết này, thoạt tiên, gây cảm giác là có một con ngựa mang tên Kim Bông hiện diện đâu đó trong quá khứ, trong xã hội thời đoạn Trịnh sơn hà đảo điên. Nhưng rõ ràng, mục đích của Phùng Cung không phải xác thực con ngựa đó, mà là để tạo ra tình huống thiên về cách lựa chọn, cách biểu đạt giá trị khi đối mặt với thực tại: con ngựa Kim Bông hoàn mỹ, tài năng xuất chúng, “cao đầu phóng vĩ”, sẽ dùng mình như thế nào, là một ngựa chiến phi thường, hay chỉ là con ngựa “mã lệnh” chuyên kéo xe phục vụ chúa và bà phi nơi cung cấm? Hai vế của một tình huống vẽ ra hai tình cảnh, hoặc là tự do, được thể hiện năng lực thực sự của mình, hoặc là phải chịu luồn cúi, trói buộc, chịu điều khiển nhưng được hưởng oai oách nơi chốn cung đình.
 
Phùng Cung gắn hình ảnh con ngựa Kim Bông với chúa Trịnh khiến vế thứ hai của tình huống có thêm sắc thái bi kịch. Chúa Trịnh, trong lịch sử và trong cảm quan dân chúng, được coi là những kẻ ăn chơi trác táng, ức hiếp vua Lê, ưa xu nịnh, giả dối và tham quyền cố vị. Không phải vua Lý, vua Trần, không phải công thần hay rường cột xã tắc, con ngựa Kim Bông tài năng chỉ phục vụ cho chúa Trịnh và bà phi, đó mới là sự cắc cớ, khó hiểu của lựa chọn này. Kim Bông tự mình quyết định hay còn bởi những tác nhân, động lực nào?
 
2. Xuất thân từ “một làng nhỏ hẻo lánh”, được một gia đình họ Nông chăm sóc, chú ngựa Kim Bông không có lý lịch quá mức danh giá, ngoại từ tài năng và vẻ đẹp thiên bẩm. Trước khi vang danh đến tai chúa Trịnh, Kim Bông chỉ tham dự những cuộc đua ngựa địa phương và dù luôn đoạt giải nhất thì vẫn “thường thường bậc trung”. Tài năng, thực lực của Kim Bông chưa thể bộc lộ đúng chỗ, đúng nơi. Khi được tuyển vào đoàn kỵ binh của chúa Trịnh, gia chủ Kim Bông cùng lắm mới nghĩ đến viễn cảnh “dùng nó xông pha chiến trận”. Duy Kim Bông có lẽ đã cảm thấy được điều gì đích đáng hơn, nên đã “phi như gió”, nửa ngày về đến Thăng Long, bỏ lại miền quê đồi núi hỗn độn của vùng Sơn Tây. Ở nơi hoàng cung, dù không khỏi sợ hãi, nhưng Kim Bông cũng dần quen, nhập cuộc với cảnh quan, sinh hoạt cung đình. Kim Bông thắng oanh liệt trong cuộc đua kén ngựa chiến của chúa Trịnh, được tặng danh hiệu “Bạch long Thiên lý mã”, được chọn làm mẫu để luyện tập cho bầy ngựa chiến của triều đình. Danh vọng, hào quang và những lời khen ngợi phủ đầy Kim Bông. Tất nhiên, đến thời điểm này, nó hoàn toàn xứng đáng. Tài năng, bất luận thời nào, cũng cần phải được thi thố, được trình hiện và ghi nhận. Chỉ có điều, tình thế sau đó của Kim Bông, “ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm”, mới đẩy con ngựa này rơi vào “bận bịu, tù cẳng”, rơi vào cảm giác bị thất sủng, bỏ quên, bị đối xử bạc đãi. Chúa không dùng Kim Bông cho chiến trường mà dùng làm mã lệnh, bị đóng cương vào gáy, giây cương thắt vào cổ, “hai vật gì to bằng hai cái lá đa che ngang hai bên mắt”. Kim Bông từ đó chỉ biết phận sự phục tùng kéo xe chúa, quẩn quanh nơi vườn thượng uyển, sân chầu. Phẩm chất, năng lực ngựa chiến của Kim Bông giờ chỉ làm vui, ngoan ngoãn răm rắp theo những cú giật giây cương sai bảo của bà phi, ông chúa.

 
Nhưng không thể nhìn Kim Bông như là nạn nhân của chúa Trịnh. Phùng Cung đủ tinh tế để gài vào Kim Bông những trần tình, bao biện có lý. Kim Bông tự thấy mình cũng “hiển hách”, “oai phong” vì được vào chốn thâm nghiêm cung cấm, can dự vào quốc sự triều đình, “đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung hô vạn tuế”. Kim Bông được ngửi mùi thơm từ vạt áo chúa và giải xiêm bà phi, được xem là “vưu vật của trần gian” trong mắt quyền bính. Sự bí bách, khổ sở vì chịu cảnh trói buộc, sai khiến được bù bắp bởi chức tước mã lệnh và ơn hưởng lộc chúa. Kim Bông tự trách bản thân có lúc đã đành hanh, giận dỗi chúa, rồi nhanh chóng rút ra bài học chí cốt: nếu chỉ “nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an cư lạc nghiệp!” Trong giọng điệu tự thỏa hiệp, Kim Bông đã mặc nhiên hợp lý hóa vị thế của mình, biến sự khó chịu, phẫn giận ban đầu thành trạng thái bằng lòng, thích thú với thực tại. “Ăn cơm chúa, múa tối ngày”, trong thâm tâm người Việt, đã là lẽ thường, là quy tắc ứng xử, huống gì Kim Bông còn được chúa ưu ái, trọng vọng, vuốt ve! Mối quan hệ giữa ông chủ (chúa Trịnh) và kẻ phục tòng (con ngựa Kim Bông), oái oăm thay, có thể là thực tại khó chấp nhận với người này nhưng lại được người khác sẵn sàng nhập cuộc.
 
Thay vì nhận ra mình chỉ tồn tại như một công cụ, phương tiện làm vui, làm đẹp cho quyền lực và lối sống của chúa Trịnh, Kim Bông tự tin với ảo tưởng mình cũng có quyền lực, danh vị và giá trị. Tương tự Chí Phèo cảm thấy bản thân anh hùng sau khi diệt trừ đội Tảo, mà thực chất là tiếp tay cho quyền bính bất nhân của Bá Kiến, Kim Bông tự mặc định bản thân có đất dụng võ cho một thế lực triều chính ăn chơi. Thói háo danh, bản tính thích được sử dụng, thích được khen tặng trỗi dậy ở Chí Phèo, ở những người nông dân thoạt tưởng hiền lành mà Nam Cao từng mô tả, có lẽ, cũng xuất hiện ở Kim Bông, con ngựa gốc gác quê mùa, có tài năng nhưng nhanh chóng thuận theo sự cất đặt, sử dụng của quyền bính. Chắc hẳn Phùng Cung hiểu rằng, với Kim Bông, nghĩa là với những cá nhân có ý chí vươn lên danh vọng, hoặc khao khát phô bày tài năng, thì sự tư biện, bao biện, tự điều chỉnh của nó là vô cùng khó lường. Kim Bông không thuần túy là một thất bại quá ư bất hạnh nhưng cũng khó nói là thành công, đắc chí. Chỉ có điều, Phùng Cung tỏ ra không hề ủng hộ, không tạo một kết thúc viên mãn cho con đường của Kim Bông.
 
Như lẽ đương nhiên, Kim Bông thui chột tài năng thực lực, bị đồng loại xem thường, và chết đau đớn trong cuộc đua thực chiến. Cái chết của Kim Bông có thể là một giải pháp “hài hòa” cho cả Kim Bông lẫn chúa Trịnh. Kim Bông chấm dứt tình trạng “bó thân về với triều đình”, còn chúa Trịnh tránh điều tiếng bạc đãi tài năng, xem thường giá trị. Ở đây, Phùng Cung không tạo ra các xung đột, đối đầu quá căng thẳng giữa Kim Bông và chúa Trịnh, không dựng nên các mâu thuẫn trầm trọng giữa tài năng và quyền bính, nhưng bằng chi tiết cái chết của con ngựa già, Phùng Cung thúc đẩy chúng ta ngẫm ngợi kỹ hơn về sự vắn số của những ảo tưởng, nhầm lẫn, của sự vội vã, hấp tấp kiếm tìm danh vọng. Ngay đến lúc chết, Kim Bông vẫn đinh ninh mình “chết vì giang sơn, vì chúa” thì sự nhầm lẫn có lẽ còn kéo theo trạng thái cả tin, mù quáng lâu dài. Kim Bông không có cơ hội để nhìn thấy, hoặc ít được đón chào trở lại, với đồng loại của mình, với đời sống nhiều thách thức, với đường đua “gió lộng, cờ cuốn, bụi bay”. 
 
3. Kết cục của con ngựa Kim Bông, thiển nghĩ, không quá xa lạ với những độc giả của văn chương, văn hóa chịu ảnh hưởng truyền thống Nho giáo. Trong các bàn luận hoặc sáng tác văn chương thành văn, giới nhà Nho lúc nào cũng đề cao cốt cách quân tử, lối sống khiêm cung, xuất thế và nhập thế đúng lúc, đúng mực. Cũng chính giới nhà Nho đã tạo nên vô số câu chuyện về thói xu nịnh, háo danh, những “tấm gương” thân bại danh liệt vì phò tá hôn quân bạo chúa, những thăng trầm số phận vì đuổi theo tiền bạc, công danh. Con ngựa già của chúa Trịnh mà Phùng Cung phác họa, theo tôi, thấp thoáng những tâm tư, nhắn nhủ của bậc văn nho bản lĩnh, biết đạo giữ mình và cũng thấu hiểu thời thế. Âm hưởng văn chương răn đời, “can gián”, vì thế, đã hắt bóng trở lại trong câu nói của viên tướng với chúa Trịnh: “Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dặm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con chiến mã có sức khỏe vào bực nhất. Còn như con mã lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước”. Sự can gián, bàn nghị của viên tướng lọt tai chúa Trịnh, được cụ thể hóa bằng cuộc tỷ sức giữa Kim Bông và các chiến mã khác. Chi tiết hết sức thú vị đó cho thấy Phùng Cung ưa dùng “phép thử”, vốn có nhiều trong các tích truyện Nho xưa, để thêm một lời bình về nhân tình thế thái thời mình đang sống.
 
Tôi không nghĩ Phùng Cung thực sự khuyên bảo ai đó bắt chước Kim Bông, cũng không nghĩ ông cảnh báo con đường tiến thân của Kim Bông là thảm họa. Nhưng tôi nghĩ, ông đang răn mình, đang giễu cợt thân phận con ngựa già trong phủ Trịnh để bản thân mình tỉnh táo tránh lâm vào lựa chọn tương tự. Trong truyện, con ngựa già thì đã chết, vô tăm tích. Còn trong đời và văn chương Việt Nam từ giữa thập niên 1990, Phùng Cung được trở lại, đón nhận nồng nhiệt và trân quý. Nếu không tự thấy con mã lệnh Kim Bông sớm muộn sẽ bị đào thải, hẳn Phùng Cung không tận tụy giữ mình cho chữ nghĩa văn chương đến thế, như vị tinh chất của trà “quất mãi nước sôi”, vẫn “không đổi giọng Tân Cương”.
 
Nhà phê bình MAI ANH TUẤN