(Thứ tư, 08/10/2025, 06:01 GMT+7)

Ngày 23/9/2010 (16/8 Canh Dần), Hội đồng Liên lạc họ Đào Việt Nam đã xây dựng công đức Khu nhà bia tưởng niệm Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc:

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, người có công đầu đứ Lý Công Uẩn lên ngôi Thái Tổ nhà Lý (1009), và dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La, lập kinh đô mới, đặt tên là Thăng long (1010), mở đầu một kỷ nguyên văn hiến, cường thịnh của nước Đại Việt, kéo dài suốt 216 năm (1009-1225).

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã có công đức, đưa người từ các vùng đến khai khẩn đất hoang, dựng nhà, đào song, mở đường, lập ra làng Đào Xá - xã Hoàng Long - huyện Phú Xuyên - Hà Nội ngày nay.

Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, con cháu họ Đào Việt Nam và dân làng Đào Xá - xã Hoàng Long, dân bia, đời đời ghi nhớ công ơn của Đức Thánh Tổ - Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc".

Làng Đào Xá xưa là trang Đào Xá (Đào Xá trại) thuộc vùng Đồng Vàng, hương Đường Hoàng Trung, huyện Phù Lưu, lộ Quốc Oai. Vùng Đồng Vàng xưa là trung tâm buôn bán sầm uất, trên bến dưới thuyền, điểm hội tụ giao lưu kinh tế giữa các miền trong vùng, nay thuộc xã Phượng Dực, TP. Hà Nội. Theo bia đá Thiệu Long thứ 12 (1270) đời Trần Thánh Tông (1258-1272) Vùng Đồng Vàng, nay là làng Đào Xá, Phượng Dực, Hà Nội - Nổi tiếng vùng đất có nhiều nghề, đã đi vào tục ngữ ca dao (huyện Phú Xuyên): “Hỡi cô thắt bao lưng xanh/ Có về Đào Xá với anh thì về/ Đào Xá thợ Ngõa thợ Nề/ Nhuệ Giang tắm mát có nghề làm men” - “Đào Xá có nghề làm men/ Cổ Hoàng làm kẹo, Thanh Xuyên buôn ngài/ Muốn ăn bánh đúc với ngài/ Bỏ cha bỏ mẹ theo trai Đồng Vàng/ Kẻ Dũi đi dủi bán tôm/ Cổ Hoàng bán mật, Thanh Xuyên bán ngài/ Kẻ Sộp thì bán áo tơi/ Bên Vân bán vải, bên Đầu bán men”...

Theo thần phả tương truyền ghi: “Có một người chở đò bến tên cụ là Nghiêm Đạt ở làng Đào Xá, không có con, hiền lành, thật thà, chất phát và giàu tính thương người. Vào một đêm đông giá rét, đã quá nửa đêm mà vẫn có tiếng gọi đò văng vẳng bên kia sông. Vì có tính thương người, nhất là lúc đêm khuya thanh vắng, lại mưa rét, cụ sẵn sàng lái đò sang để chở người qua sông. Nhưng lạ thay cụ sang chẳng thấy một ai, chỉ thấy đêm tối cùng với những tiếng kêu râm ran của côn trùng trong cảnh khuya thanh vắng không bóng người. Cụ liền quay đò trở lại bên kia sông. Nhưng rất lạ, vừa đặt mình nằm lại có tiếng gọi đò tha thiết, tỏ ra rất cầu mong ở bên kia sông. Không ngại mưa rét, đêm tối, cụ lại quay đò sang sông để chở khách. Sang đến bên kia bờ, lại chẳng thấy một ai, cụ đành quay trở về. Vừa thiêm thiếp ngủ, lại có tiếng gọi đò vọng lại nghe rất thương cảm. Không trần trừ, cụ tiếp tục chèo đò sang sông. Sang đến nơi, khác với lần trước, lần này khách là một cô gái trẻ đẹp, vẻ mặt phúc hậu, muốn sang sông. Cụ nhẹ nhàng, thân tình đưa xuống đò. Lúc này, cụ đã quá mệt, cô gái lại ngỏ ý muốn trọ qua đêm. Cụ vui vẻ nhận lời, rồi nhường chăn, chiếu cho cô gái, còn mình ra cạnh lều nằm. Nghe theo lời khách, đến canh tư cụ gọi khách dậy, cô gái vẫn ngủ yên. Rồi canh năm cụ gọi, cô gái vẫn không thưa. Cụ khẽ khàng mở chiếu để tỉnh giấc cho cô thì ôi! Chỗ nằm của cô gái là một đống vàng sáng chói. Cụ sững sờ và nghĩ rằng: Dân làng ta còn nghèo đói, trời Phật hóa thành cô gái để thử mình giữa đêm khuya giá rét, thấy lòng tốt và tình thương người rộng lớn của mình mà trao số vàng để giúp đỡ dân lành. Cụ liền đem hết số vàng và những đồng tiền mà cụ dành dụm được trong bấy lâu nay mua gỗ vật liệu làm cầu, mở chợ xây am, xây đình, xây chùa, hỗ trợ dân làng và cái tên Đồng Vàng cũng được khai sinh từ đấy. Dựng cầu, mở chợ, xây đình, làm chùa xong, một hôm cụ trèo lên mái cầu để kiểm tra thì bỗng nhiên phong ba, bão táp, sấm chớp ầm mầm kéo đến, một cơn lốc lớn lay cây, rung núi. Mặt sông biến sắc, mây tía đưa Người đi, thật là hiển thánh. Hôm đó là ngày mồng một giữa giờ ngọ tháng 8. Toàn dân đội ơn đức thánh, cậy nhờ lòng nhân, hội họp, tạo tượng thánh, lập điện thờ Ngài để sau này cầu đảo hoặc khi đại hạn đều võng rước thánh ngự đến chợ Đồng Vàng để dân 5 thôn quanh vùng hết thảy đều tưởng ngưỡng”. Văn tế Đức Thánh tiên Nghiêm Đạt ở Miếu Đào Xá có câu: “Đào Xá giáng thần, tú xuất sơn hà chi chính khí/ Đồng Vàng hiển thánh, xung phi bồng đảo chi khinh trần”.

Đúng vậy, làng Đào Xá (thuộc xã Phượng Dực, thành phố Hà Nội), là nơi thờ phụng Đức Thánh Tổ Thái sư Á vương Đào Cam Mộc và Đức Thánh Tiên Nghiêm Đạt. Ngày 20/9/2025 chúng tôi có dịp về sưu tầm tư liệu, rồi được gặp gỡ: Ông Đào Duy Anh (nguyên Huyện ủy viên huyện Phú Xuyên, Bí thư, Chủ tịch UBND xã Hoàng Long cũ), ông Đào Văn Bàng (Trưởng thôn), ông Nghiêm Xuân Thiều (Bí thư Chi bộ thôn), ông Nghiêm Minh Khôi (cựu cán bộ ngành Giáo dục Đào tạo đã nghỉ hưu) và được các cụ cao niên trong làng Đào Xá cho biết: Cách đây hơn 1000 năm (khoảng thời điểm vua Lý Công Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long) - Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã đặt chân đến đất này vào một buổi chiều hoàng hôn lịch sử. Đang lúc Ngài nghỉ chân thì người dân ra chảo hỏi. Theo gia phả của làng, Đào Xá trang lúc đó chỉ có 36 người dân sinh sống tại ngõ Sượng (gò đất cao khu nghĩa trang bây giờ). Ngài đã thăm hỏi, dặn dò, bày, dạy cách làm ăn, chăn tằm, chăn nuôi, dệt vải, sản xuất nông trang, đào giếng nước ăn, sống cần giữ gìn thuần phong mỹ tục và cho mỗi người mấy trăm quan tiền để sinh sống. Trải qua thăng trầm biến cố của thời gian, Đào Xá trại năm xưa nay đã thay đổi, hiện có hơn 600 hộ dân và gần 2000 nhân khẩu, làng có 5 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 44 Liệt sĩ qua các cuộc kháng chiến, 22 thương bệnh binh, nhiều con em trong làng là Tiến sĩ, Thạc sĩ, Kỹ sư, sỹ quan cao cấp trong lực lượng vũ trang, các ông là cán bộ đầu ngành, là Bí thư, Chủ tịch xã qua các thời kỳ. Làng Đào Xá đạt danh hiệu Làng Văn hóa cấp huyện, đạt chuẩn nông thôn mới, đường làng ngõ xóm khang trang, bê tông hóa, văn minh, giàu đẹp, đã từng đi vào ca dao cổ: “Dù ai buôn đâu bán đâu/ Tháng tám mười sáu rủ nhau mà về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Tháng tám mười sáu thì về Hội quê” - “Giếng Đào Xá vừa trong vừa mát/ Đường Đào Xá bê tông dễ đi” - “Gái Đào Xá như hoa thiên lý/ Trai thiên hạ ngỏ ý xin về” -“Bánh đúc Đào Xá xẻ ba/ Mắm tôm quệt ngược cả nhà anh siêu”...

Miếu Đào Xá, nơi thờ phụng Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và Đức Thánh Tiên Nghiêm Đạt. Miếu nằm trên một thửa đất rộng độc lập, thoáng mát, với tổng diện tích khoảng 8.000m2, miếu quay hướng Đông Nam. Miếu Đào Xá có giá trị Di sản văn hóa lịch sử lâu đời, ngày 14/1/2014 UBND thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số 2702 QĐ/UBND-VX về việc công nhận xếp hạng “Miếu Đào Xá là Di tích Lịch sử Kiến trúc Nghệ thuật”. Miếu Đào Xá còn để lại: Miếu được xây dựng vào khoảng thời gian từ 1453 đến 1500 (thời nhà Mạc cách nay gần 600 năm) hiện còn 02 cây duối cổ tuổi đời 500 năm (như dãy duối buộc voi thời vua Ngô Quyền ở làng cổ Đường Lâm Sơn Tây). 02 bản sắc phong (hiện rất cũ, nát đã mất nhiều nét). Tấm bia đá cổ thời nhà Mạc do ông Nguyễn Phúc Giác Hải về thăm quan và đánh giá niên đại 1590. Một tấm bảng gỗ có in chữ Hán Nôm ghi lại toàn bộ quá trình xây dựng và thần tích của làng Đào Xá trại thời Mạc Mậu Hợp (1562-1592). Miếu xây dựng theo kiểu chữ đinh do nhân dân thời đó xây dựng lên (vật liệu xây dựng miếu là vôi giấy, gỗ lam, gạch cổ). Còn 01 bộ long ngai sơn son thiếp vàng thời Nguyễn (có quần áo, mũ, hia, bài vị thờ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc), 02 bát hương cổ thời Nguyễn, 02 cây nến đồng thời Nguyễn, 02 lọ lục bình thời Nguyễn, 01 hương án sơn son thiếp vàng, 01 đỉnh đồng thời Nguyễn... Trước cửa miếu có 04 câu đối thể hiện công lao của Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và năm xây dựng miếu, lập ấp, mở trại của Ngài:

Câu đối 1: “Bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí/ Phi long nhi sương, phi hổ nhi hung” dịch nghĩa là “Không mạnh mà nhanh, không đi mà đến/ Không phải rồng mà (phun) sương/ Không phải hổ mà dũng mãnh”.

Câu đối 2: “Lẫm lẫm uy linh bàng đế khuyết/ Nguy nguy tượng mạo vũ thần uy” dịch nghĩa là “Lẫm liệt oai phong bên cửa Đế/ Lồng lộng dáng vè võ uy Thần”.

Câu đối 3 trước cửa miếu: “Thánh minh khải vận, anh thanh phi chấn Lý càn khôn/ Thần vũ dương uy linh, tích quynh tiêu Lê nhật nguyệt” dịch nghĩa là “Thánh sáng suốt mở vận, tiếng tài lừng lẫy đất trời (nhà) Lý/ Thần tài giỏi tỏ oai, dấu thiêng khép lại ngày tháng (nhà) Lê”.

Câu đối 4:“Địa khởi phiêu Đào, Xá chỉ thiên thu chúng tú khí/ Dân gian ân Phú, Xuyên lưu vạn phái ngưỡng hồng ân” dịch nghĩa là “Đất dậy lâng lâng, làng ở nơi nghìn năm tụ khí lành/ Dân them giáu có, song chảy dẫu muôn dòng trông ơn cả”.

Trong nhà: Hoành phi 1 “Dực Bảo Trung Hưng” nghĩa là “Che chở, giữ gìn sự hưng thịnh” - Hoành phi 2 “Giang Sơn Tối Linh” nghĩa là “Non sông chút linh thiêng” - Câu đối “Lễ nhạc uy nghi, kính như Đức Thần tại/ Âu ca cổ vũ, lạc tại nhân dân hòa” nghĩa là “Lê nhạc uy nghi, cung kính như Đức Thần đang trước mặt/ Âu ca cổ vũ, vui bởi thấy nhân dân sống thuận hòa”.

Câu đối ở đình làng Đào Xá: Câu 1 “Công tại Lý triều lưu danh tại sử/ Sinh vi lương tướng hóa vi linh thần” dịch nghĩa là “Công ở triều Lý, tên lưu ở sử/ Sống làm tướng giỏi, chết hóa thần thiêng”. Câu 2 “Sinh vi lương tướng tử hóa vi thần/ Công tại Lý triều, danh lưu tại sử” dịch nghĩa là “Công ở Lý triều, danh lưu ở sử/ Sống làm tướng giỏi, chết hóa làm thần”. Câu đối giữa cửa đình “Thánh đức huy hoàng nhân kiệt địa linh thiên tài thịnh/ Thần công tế độ dân khanh vật phụ vạn giá hưng” dịch nghĩa là “Đức Thánh huy hoàng, nhân kiệt địa linh, muôn đời thịnh/ Công thần cứu vớt, dân khang vật phụ, vạn nhà hưng”. Câu đối hai bên “Trạc trạc quyết linh phù quốc kỷ/ Dương dương tại thượng hộ dân sinh” dịch nghĩa là “Rỡ rỡ khí thiêng, nâng đỡ kỷ cương đất nước/ Ung dung trên đó, chăm lo đời sống nhân dân”. Bức Bình phong phía trong “Đức kỳ thịnh” nghĩa là “Đức ấy thịnh”. Câu đối giữa “Đình sở trang nghiêm chung tú địa/ Phong hòa vũ thuận thái bình thiên” dịch nghĩa là “Đình sở trang nghiêm, hun đúc đất ưu việt/ Gió hòa mưa thuận biểu tượng trời thái bình”. Câu đối hai bên “Tứ thời hoa tự cẩm/ Vạn chúng diện giai xuân” dịch nghĩa là “Bốm mùa, hoa tựa gấm/ Muôn người, mặt đều xuân”. Bức Bình phong phía ngoài “Đức Hòa Phong” dịch nghĩa là “Đức là luồng gió mát dịu”. Câu đối ở giữa “Bán nguyệt ngọc hồ ngư tích thủy/ Bồ đề đại thụ điểu truyền ca” dịch nghĩa là “Hồ ngọc bán nguyệt, cá bơi trắng nước/ Cây lớn Bồ đề, chim truyền tiếng ca”.  Câu đối hai bên “Hỷ vũ thiên sơn quả/ Hòa phong vạn thụ hoa” dịch nghĩa là “Mưu mừng quả nghìn núi/ Gió dịu hoa vạn cây”.

Hậu cung: Câu đối hàng 1 “Hộ quốc Lý triều lưu thanh sử/ Phù dân độ thế hiển linh từ” dịch nghĩa là “Giúp nước triều Lý ghi trong sử xanh/ Đỡ dân, cứu đời sáng nơi đền thiêng”.Hoành phi bên phải từ ngoài vào “Nhập tắc thiện” dịch nghĩa là “Vào thì tốt”. Hoành phi bên trái từ ngoài vào “Xuất sắc lương” dịch nghĩa là “Ra thì lành”. Câu đối hàng 3 “Thiên bản giáng thần Lý đại trâm anh quang sử lục/ Địa linh hiển thánh, nước Nam bang kim cổ ngưỡng khôn nghi” dịch nghĩa là “Trời vốn giáng thần, triều Lý trâm anh sang sử chép/ Đất thiêng hiển thánh, nước Nam nay trước mộ Khôn nghi”. Câu đối hàng 2 (cột trong) 3 bức đại tự (hoành phi) “Dực Bảo Trung Hưng” giữa (Che, chở, gìn giữ sự hung thịnh) “Chúc Khánh Thọ” bên phải “Phúc Lai Thành” bên trái (Phúc đến sẽ thành). Câu đối ở giữa ‘Lý triều định đô vương tứ phúc/ Đào trạng văn quang quốc ân thần” dịch nghĩa là “Triều Lý định đô, vua ban phúc/ Đào trạng, văn sang, nước ơn thần”.

Nguyên văn câu đối tại nhà thờ họ Đào (tư dinh của cụ Đào Cam Mộc ở Cổ Loa, Đông Anh) “Lý triều định đô vương tứ phúc/ Đào trạng văn quan quốc ân nhân” dịch nghĩa là “Giúp nhà Lý định đô, vua ban phúc/ Là quan văn hàng đầu, nước nhớ ơn bậc sinh thành”. Câu đối hai bên “Lập ấp định đô quốc Lý triều trung hiếu liệt/ Khai hoang phục hóa dân cường đức nhuận bảo thuần phong” dịch nghĩa là “Lập ấp định đô, giúp nước, triều Lý niềm trung hiếu cháy sáng/ Khai hoang, phục hóa, dân mạnh, đức nhuần, giữ gìn phong tục tốt”. Hàng cột 1 (cột ngoài) “Phúc dân khả bái tam công tước/ Thọ thánh năng hô vạn tuế thanh” dịch nghĩa là “Làm phúc cho dân, đáng cầu chúc tước Tam công/ Chúc thọ Thánh có thể hô tiếng Vạn tuế”. Câu đầu“Hộ Quốc Lưu Danh Sử” (Giúp nước lưu tên sử) “Anh Linh Cổ Diệc Kim” (Anh linh trước đến nay).

Với vị thế địa lý từ xưa: Đào Xá là vùng đất được định danh sớm, nhân dân chăm chỉ làm ăn với nghề nông. Không những thế, Đào Xá còn là một địa chỉ văn hóa gồm những di tích trong làng. Miếu Đào Xá là công trình kiến trúc nghệ thuật còn bảo lưu được những giá trị đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn với kiểu thức, sắc thái riêng biệt gồm các bộ vì giá chiên, hạ kẻ xó cũng những hoa văn chạm khắc đặc sắc tại những bức cốn rường, những đầu dư, đầu đao cùng hệ thống di vật. Làng Đào Xá là một địa danh mang đậm dấu ấn lịch sử và văn hóa của vùng đất Thăng Long. Nơi đây không chỉ nổi bật với di tích Miếu Đào Xá thờ Thái sư Á vương Đào Cam Mộc mà còn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng và phát triển nông nghiệp. Nguồn gốc lịch sử của làng Đào Xá: Theo các tài liệu lịch sử, vào thời kỳ sơ khai, Đào Xá được xây dựng trên một khu đất thuộc cánh đồng Đanh, được gọi là Đào Xá trại. Thái sư Á vương Đào Cam Mộc đã dẫn dắt 36 người dân đến đây lập nghiệp, cấp tiền bạc để họ xây nhà và tậu ruộng. Sau này, do khu đất cũ trở nên chật hẹp, làng được chuyển xuống phía Nam khoảng 200m, lấy tên là Đào Xá như ngày nay.Vai trò của Đào Cam Mộc trong lịch sử: Là một danh thần dưới triều Lý, Đào Cam Mộc được xem là người có công đầu trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, khởi đầu triều đại nhà Lý (1009). Ông không chỉ là nhà chính trị xuất sắc mà còn góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng cho làng Đào Xá, bao gồm đào sông và mở đường, tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài. Sự phát triển qua các thời kỳ: Từ một vùng đất hoang sơ, Đào Xá trại dần trở thành một ngôi làng trù phú với nghề nông là chủ đạo. Các di tích lịch sử như Miếu Đào Xá đã trở thành biểu tượng văn hóa, lưu giữ giá trị truyền thống của người dân nơi đây. Ngày nay, Đào Xá vẫn giữ được nét đẹp cổ kính bên cạnh sự phát triển của kinh tế và xã hội. Miếu Đào Xá thờ phụng Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc - Vị Thành hoàng làng. Để hiểu rõ hơn về giá trị lịch sử và văn hóa của di tích này, chúng ta sẽ cùng khám phá những nét đặc sắc và ý nghĩa mà Miếu Đào Xá mang lại cho cộng đồng. Vai trò văn hóa và tâm linh: Miếu Đào Xá không chỉ là nơi thờ cúng Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc mà còn là trung tâm văn hóa của làng. Hàng năm, vào ngày 16 tháng 8 âm lịch, người dân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công lao của Ngài. Ngoài ra, ngày 12 tháng 11 âm lịch là dịp tổ chức lễ giỗ, thu hút đông đảo người dân và du khách đến tham dự, cầu mong sự che chở và bình an. Ý nghĩa đối với cộng đồng:  Miếu Đào Xá là nơi gắn kết cộng đồng, nơi người dân gửi gắm niềm tin và lòng biết ơn đối với tổ tiên. Các hoạt động văn hóa tại đây không chỉ giúp bảo tồn truyền thống mà còn góp phần quảng bá hình ảnh của Đào Xá đến du khách trong và ngoài nước. Đào Xá không chỉ nổi tiếng với Di tích lịch sử văn hóa mà còn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng và đang trên đà phát triển kinh tế mạnh mẽ. Từ di tích Miếu Đào Xá đến truyền thống cách mạng kiên cường và những bước tiến trong kinh tế, nơi đây mang trong mình nét đẹp của sự giao thoa giữa quá khứ và hiện đại. Với các kế hoạch quy hoạch đô thị và sự chuyển mình mạnh mẽ, Đào Xá hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến nổi bật trong tương lai.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại Việt sử ký toàn thư (2013), Nhà xuất bản Thời đại.
2. Địa chí Hà Tây (2007), Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây.
3. Kho tàng văn học dân gian Hà Tây (2006), Hội Văn học nghệ thuật Hà Tây.
4. Tục ngữ ca dao Phú Xuyên xưa và nay (2010), Nhà xuất bản Hải Phòng.
5. Phượng Dực đăng khoa lục (1995), Nhà xuất bản Khoa học - Xã hội.
6. Lễ hội cổ truyền Hà Tây (1999), Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây.
7. Đến với truyền thống và di sản văn hóa (2010), Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.
8. Di tích Hà Tây (1999), Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây.
9. Việt Nam văn hóa sử cương (1992), Đào Duy Anh.
10. Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam, Nguyễn Duy Hinh.
11. Đồng vàng quê ta (1996), Lê Ngoạn (Chủ biên).
12. Các vị Thần thời Lý (2011), Vũ Thanh Sơn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
13. Các đại công thần trong lịch sử Việt Nam (2013), Nhà xuất bản Lao động.
14. Bảo tàng hóa di sản văn hóa làng (2006), Đặng Văn Bài, Nguyễn Hữu Toàn, NXB Thế giới.

Thạc sĩ Phùng Quang Trung - Chủ tịch Hội đồng Thẩm định, Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Nguyên Trưởng phòng Văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch