(Thứ năm, 23/10/2025, 01:09 GMT+7)

Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là những làng Việt rất cổ (Kẻ Yên - Kẻ Tuân - Kẻ Do - Kẻ Nghĩa - Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thuở các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang (sông Đáy) thuộc châu thổ sông Hồng.

Yên Lộ là một làng Việt cổ tiêu biểu của đồng bằng Bắc bộ có đình, chùa, nhà thờ khang trang, bề thế, có giếng nước cổ, ao làng, bờ tre, bờ đê ven sông Đáy để lại cho các thế hệ mai sau:

Một chốn uy nghi chùa tổ đình
Bao đời sung bái thật là linh
Họ Trịnh làng Yên nhiều người tốt
Thánh địa Thành hoàng thật anh minh
Kẻ Lộ bốn mùa luôn khấm khá
Trịnh tộc trường tồn vạn đại vinh
Phục quốc oai linh tràn bốn cõi
Yên Lộ keo sơn trọn nghĩa tình”

Làng Yên Lộ có ngôi đình thờ 3 vị Thành hoàng: Thượng đẳng thần Thủy Hải Long Vương là thần nước, vị thần bảo trợ quen thuộc của cư dân nông nghiệp - Trung đẳng thần Tĩnh Quốc Công Đệ Tam Lang là Lạc tướng của Vua Hùng Vương thứ 18 - Trung đẳng thần Ả Lã Công Chúa (húy Nàng Đê) Tả Đạo Tướng Quân của Hai Bà Trưng. Trong đình còn lưu giữ nhiều câu đối cổ, tiêu biểu có câu: “Hộ quốc tí dân, công đức nguy nga thiên địa tịnh/ Trừ tai phòng họa, uy khanh hách hách cổ kin truyền” - Tạm dịch là: “Giữ nước cứu dân, công đức lớn cùng trời đất/ Trừ tai phòng họa, tiếng thơm truyền mãi xưa nay”. Theo ngọc phả, vào những năm 40 đầu Công nguyên ngôi đình làng Yên được dựng bằng tranh tre trên cánh bãi ven sông, vào tháng 3 rợp đỏ màu hoa của 3 cây gạo cổ thụ, dân vẫn quen gọi là Bãi Gạo. Khi Vua Lê Đại Hành theo dòng Hát Giang ra đánh giặc Tống, cuối thế kỷ X, nhà Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo đem vài vạn tinh binh sang xâm lược nước ta. Vua Lê Đại Hành bài binh bố trận đánh dẫn một cánh quân tiến về đất trang Yên Lộ, thấy cảnh núi sống uốn lượn quanh co, sông nước hữu tình, bền dừng lại đóng quân đã dừng chân tại đây ngày 11 tháng Chạp. Đêm đó, Ngài đã được Thành Hoàng làng ứng mộng báo trước tin chiến thắng. Sáng hôm sau, trong niềm tin vào sự phù trợ của linh khí núi sông, Ngài đã làm lễ tế thiên địa rồi tiếp tục hành binh. Quả nhiên trận đánh đã đại thắng. Trên đường khải hoàn, Ngài hạ trại tại đây từ ngày mồng 8 đến 15 tháng Giêng để lễ tạ và khao quân thưởng tướng. Sau đó Ngài trao cho các bô lão trong làng 500 nén bạc và truyền rằng: “Ngôi đình này rất anh linh, các cụ nên tu sửa và thờ phụng cho chu đáo”. Nghe lời, năm Nhâm Ngọ 982 đình Yên Lộ được các cụ đã chuyển đình từ Bãi Gạo hay gọi là Bãi Hành Tại (vốn hay ngập lụt) lên vệ đê gò con quy (tức đình Yên Lộ ngày nay) cao ráo thoáng đãng.

Ả Lã Nàng Đê, theo truyền thuyết và thần phả là người con gái quê ở làng Thọ Vực (Nghĩa Trên), đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40-43 sau Công nguyên. Thánh Tịch Quốc Tam Lang và Thủy Hải Long Vương thì theo bản thần phả do Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được sao lại vào năm Khải Định thứ 6 (1921) hiện còn lưu giữ ở đình làng thì hai vị thần đã được thờ từ xa xưa ở trang Yên Lộ. Theo sách “Các trấn, tổng, xã danh bị lãm” viết vào thời vua Gia Long (1810 - 1819), thì đình nằm trên thế đất cao, theo hướng tây nam trông ra một hồ rộng lớn, xung quanh đình là những cây gỗ lớn. Đình có mặt bằng kiến trúc theo lối chữ “đinh”, hai bên có Tả hữu mạc. Trước đình là hai cột đồng trụ cao 7m, hai bên có cổng pháo đắp vữa giả làm bằng ngói ống có tám mái cong. Nối giữa trụ chính là cổng pháo, tường bao. Tường bao đắp nổi một bảng rồng và một bảng hổ bằng vôi vữa. Hai cột trụ hình vuông mỗi chiều 1,2m. Bước qua cổng ta tới một sân lát gạch, gạch vuông sen kẽ gạch hình chữ nhật chạy dài tới bậc thềm của đình. Hai bên sân là nhà Tả hữu mạc có chiều dài 7m, chiều cao 3,8m. Các vì kèo là kiểu bào trơn đóng bén, xà được gác lên tường, cho nên không có cột. Đại bái là công trình kiến trúc chính của di tích, từ sân bước lên Đại bái sáu bậc thềm bằng đá và lát gạch vuông 30cm x 30cm. Toàn bộ bậc đá có 53 viên, viên dài nhất 1,53m, dầy 14cm, rộng 24cm. Đại bái có lòng rộng 7m, dài 15,5m, có 24 cột. Đình là ba gian hai dĩ mái cong, xung quanh Đại bái được xây gạch để bảo vệ. Các bộ vì kèo trong Đại bái làm theo kiểu “chồng rường con nhị”, trên thượng lương có đắp hổ phù. Hai vì kèo gian giữa có bốn bức cốn được chạm bốn mặt trong và bốn mặt ngoài những con chim phượng, rồng cuốn thuỷ, rùa. Các cốn mê khác là cành trúc hoá rồng. Các bẩy hiên đều chạm lá lật và lá cách điệu thành rồng. Nhìn chung kiến trúc đơn giản, mang phong cách muộn thời Nguyễn. Trong Hậu cung là hai bộ long ngai bài vị, trong đó có một bài vị có niên đại thời Hậu Lê, một thời Nguyễn. Cả ba mâm đài và chín quả đa, một choé có hoa văn men xanh sẫm để cúng (nước cúng). Thủy Hải Long Vương được phong là “Linh Ứng hộ quốc, hách thanh, châu diện tôn thần”, Tịnh Quốc Tam Lang được phong tặng Phúc thần. Hiện tại đình làng còn lưu giữ 21 đạo sắc của các triều vua phong cho 3 vị thần (trong đó 4 đạo phong cho Quốc Vương Thiên tử Thủy Hải Long Vương, 1 đạo cho Thủy Hải Long Vương và Ả Lã Nàng Đê, 4 đạo phong cho Thủy Hải Long Vương và Tịch Quốc Tam Lang, 01 đạo cho Ả Lã Nàng Đê, số con lại phong chung cho cả 3 vị thần, trong số đó có 8 bản là bản sao lại). Đạo có niên đại sớm nhất là đạo năm Vĩnh Thịnh 7 (1711), đạo muộn nhất vào năm Khải Định thứ 9 (1924), có một đạo năm Quang Trung thứ 4 (1791), 01 đạo năm Bảo Hưng thứ 2 (1802). Đình mới được xây dựng kiên cố, bề thế trên nền đất kim quy (gồm đại bái nối hậu cung theo kiểu chuôi vồ, hai bên có tả mạc, hữu mạc. Cửa đình hướng ra khúc tụ thủy của sông Đáy và toàn cảnh núi Tử Trầm như một bức bình phong, bên hữu là dãy Ba Vì xa xanh, sau lưng là bờ đê vững chắc). Trên nền cũ của Bãi Gạo, nơi vua Lê Đại Hành từng ngự giá thì cứ hàng năm làng mở đám. Nơi đây diễn ra trò Nghiềm Quân và thi Dựng cây xôi, ngày thường là nơi dân họp chợ làng.

Tưởng nhớ công đức của nhà vua, hàng năm làng Yên Lộ tổ chức hội làng với trò thi “Dựng cây xôi”. Mở hội lệ, gặp năm “Phong đăng hòa cốc” mở hội đám, chọn ngày mùng 8/Giêng làm ngày chính tiệc, sau đó kéo dài hết ngày 21/Giêng. Tờ mờ sáng 8/Giêng, hai đám rước các Thánh lên Quán Thượng, xuống Quán Hạ, khởi hành và trở về hội quân ở trước nền giao quan trên Bãi Gạo (hành tại), vào đầu giờ tỵ (khoảng 10h), trò Nghiềm Quân được trình diễn. Tiếp theo là trò thi “Dựng cây xôi” độc đáo. Để có gạo nếp cho việc thổi xôi, hàng năm mỗi giáp bình chọn lấy một gia đình được lo việc nhà thánh. Gia đình ấy được làng giao cho cầy cấy mấy sào công điền. Từ việc chọn giống đến việc gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, xay giã... không ái bảo ai đều rất cẩn trọng tỷ mỷ. Phải chọn giống nếp quýt hoa vàng, khi lúa trắc xanh phải lựa cắt hết bông cời. Khi giã phải nhẹ nhàng chân dận cần cối đều nhịp chày để gạo sóng tăm tắp. Trước khi đồ xôi phải tải gạo ra nong nia, dung đữa vót nhọn gắp bỏ những hạt sạn, hạt tẻ, hạt óc cá, hạt gãy còn sót. Lại chỉ con trai chưa vợ, con gái chưa chồng, có nết mới được giao việc. Tính riêng công đoạn làm gạo kỹ có nhà phải nuôi cơm con cháu đến giúp việc nhộn nhịp hàng tuần. Cái lạ nhất ở đây, có thể bàn dân thiên hạ chưa thấy có chính là tầm vóc bất ngờ của “cây xôi”. Xôi được bày trên mâm rồng sơn son thếp vàng. Mâm tròn đường kính 80cm, có 4 chân cao 60cm, mặt mâm được quây (như quây thóc) bằng 3 vòng đai son đỏ, mỗi đai 20cm. Xôi phải đơm đầy 3 đai ấy mới đạt mức khoán. Những vòng đai son đỏ phải làm bằng tre cật già, cạo sạch tinh, đan long hình hoa gấm. Mỗi đai cũng cao 20cm, người đơm phải bắc ghế lên cao dần; cứ đua tài như thế, rồi cây xôi nào cũng rất cao, rất nặng, khó bề chuyển dịch. Sáu cây xôi được đặt hang ngang, thứ tự theo tên giáp, từ đông sang tây. Sau khi tháo bỏ các đai tre, giữ lại 3 đai sơn, 6 cây xôi như có phép mầu thoắt hóa thành những cây thiêng với phần đế đỏ óng, phần thân trắng muốt vươn cao sừng sững không kém tầm vóc những thân cây gạo cổ thụ giữa không gian lễ hội rợp trời cờ quạt, trống chiêng. Ai được chiêm ngưỡng một lần quả đáng nhớ đời. Theo truyền ngôn trong dân gian thì lần cuối cùng hội làng có thi dựng cây xôi đã cách đây hơn một thế kỷ (khoảng 1900 gì đó). Lần ấy cây xôi của cự Tổng Kiên được giải nhất, cây xôi cụ Trùm Nhì được giải hai. Cây xôi giải nhất chỉ riêng phần xôi đã cao đến 2 mét, hết hơn 2 tạ gạo. Phần thưởng tặng giải nhất là một miếng thịt lợn, trường năm tấc, khoát 3 tất và một ván xôi đặt lọt chiếc mâm vuông cạnh 8 tất. Cây xôi vừa cao lớn vạm vỡ, vừa óng ả nuột nà ấy là điềm lành báo trước tin vui năm đó cả gia tộc, cả giáp, cả dân thôn được mùa lộc chẳng có gì so sánh được. Trên sân đình làng còn tổ chức chơi cờ bỏi, chơi leo cầu đốt pháo, chơi trò đánh đu, cờ người....

Những năm trở lại gần đây: 2005, 2010, 2015, 2020, 2025 cùng với việc giữ gìn tu tạo di tích và bản sắc dân tộc, hội xuân làng Yên Lộ đã được mở lại, mỗi năm một vui hơn, trong đó họ Trịnh làng Yên đóng vai trò rất lớn đóng góp tham gia với phong trào của quê hương. Điểm nhấn đặc biệt của lễ hội truyền thống Đình Yên Lộ, Yên Nghĩa mà ít lễ hội khác có được đó là: Nghi thức "xin đỏ" (lấy lửa đỏ) lúc 23h30 đêm mồng 10 Tết (trừ lễ hội truyền thống làng Văn Nội phường Phú Lương lấy lửa đỏ vào đêm 12 tháng giêng), khi người dân cầm nén hương, chờ lệnh hóa mã để xin "ngọn lửa đỏ tâm linh" mang về nhà. Ngọn lửa linh thiêng ấy được tin rằng sẽ mang lại may mắn, phát đạt và hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Ngoài ra sự có mặt của đầy đủ 54 Hội đồng niên ở các lứa tuổi cả Nam và nữ ăn mặc rất chỉnh tề, trang nghiêm, đẹp mắt và xếp hàng theo thứ tự lần lượt để dâng lễ lên Đình Làng tỏ lòng thành kính với các bậc anh linh, các bậc tiền bối và 3 bị Thành Hoàng Làng. Đình Yên Lộ từng là nơi tập trung lực lượng, huấn luyện quân sự của lực lượng tự vệ và là nơi diễn ra nhiều hoạt động cách mạng quan trọng trong thời ký tiền khởi nghĩa. Với những đóng góp to lớn đó, năm 1969, làng Yên Lộ được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen "Làng có công với nước". Đến năm 1991, đình làng Yên Lộ được Bộ Văn hóa Thông tin (nay Bộ VHTTDL) công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Yên Lộ xưa có ngôi miếu ở khu vực Ba Cây, nhưng đã mất từ lâu. Đền Hà và Quán Chảy là nơi thờ cúng chung của 3 làng: La Tinh, La Phù và Yên Lộ (mùng 7/Giêng La Phù rước và tế, sáng mùng 8/Giêng Yên Lộ tế và rước khỏi thì La Tinh rước xuống và tế (Yên Lộ rước ra/ La Tinh rước vào). Làng Yên Lộ tước đây có 2 ngôi chùa (chùa An Quốc là chùa trên và chùa Kim Tiên là chùa dưới). Chùa An Quốc theo ngọc phả về Ả Lã Nàng Đê thì (do cụ Nguyễn Viên là cha của Ả Lã làm để cầu tự). Chùa được xây dựng vào cuối thờ Lê. Làng Yên Lộ hiện có nhà thờ Thiên Chúa Giáo còn một quả chuông (An Quốc tự chung đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 năm Bính Thìn 1796 - Nay chữ Cảnh Thịnh bị đục xóa). Chùa Kim Tiên được dựng năm đầu thời Nguyễn (tại chùa còn quả chuông đúc năm Thiệu Trị thứ 6 Bính Ngọ 1846). Cuối thế kỷ trước, chùa An Quốc được dỡ đi để làm nhà thờ cho giáo dân theo sự thỏa thuận của hai bên lương giáo. Trên bảng của nhà thờ có hàng chữ “Thiên Chúa Giáng Sinh - 1837”. Trong đồng ngoài bãi của làng cũng còn nhiều địa danh mang tên gọi rất cổ như “Cửa rừng”, “Đầm cạn”, “Đống sấu”, “Vệ rừng”, “Tháp bún”, v.v...


Bản gỗ cổ ở nhà thờ Trưởng tộc họ Trịnh

Từ rất xa xưa, làng Yên Lộ có bốn họ: Trịnh, Đinh, Đỗ, Lưu về đây sinh sống, thấy mảnh đất trù phú, tốt tươi đã cùng nhau xây dựng lập lên làng Yên Lộ: Theo tài liệu được ghi chép lại từ tài liệu của cố Giáo sư Sử học Văn Tân (do cụ Trịnh Bá Bổng cung cấp), vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Triệu đà đánh bại An Dương Vương thôn tính nước Âu Lạc, tướng Phạm Gia của An Dương Vương (cách ngày nay khoảng 2.244 năm) đã trốn về phía Tây cùng 4 cụ (Trịnh Huân, Đỗ Đức Tiến, Đinh Đức Lượng và Lưu Quy) lập trại Cái Chuôm ở ven sông Đáy, cách bờ sông khoảng nửa dặm là núi Tử Trầm và về sau đã phát triển hình thành làng Yên Lộ (Kẻ Yên) trên bến dưới thuyền, từng buôn bán sầm uất có nghề tằm tơ nổi tiếng trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải đã đi vào ca dao cổ:

Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Yên Lộ với anh thì về
Yên Lộ có cội bồ đề
Sông Đáy uốn khúc có nghề tằm tơ.

Chúng tôi có dịp về tìm hiểu sưu tầm, nghiên cứu: Bản dịch (viết bằng chữ Hán Nôm) trên bảng gỗ tại nhà thờ họ Trịnh Bá còn lưu giữ được (do Tiến sĩ Nguyễn Đạt Thức ở Cục Di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch dịch) - Bản chữ Hán Nôm cổviết trên bảng gỗ được biên chép lại ngày 9 tháng 12 năm Tự Đức thứ 10 (1857) - Khi đó có sự chứng kiến, giúp đỡ, cung cấp tư liệu của ông Trịnh Bá Tuấn (sinh năm 1955, Chủ tịch Hội đồng gia tộc họ Trịnh Bá) cùng các ông: Trịnh Bá Nam (sinh năm 1939, là hội viên hội CCB Việt Nam về địa phương nhiều năm từng làm Chủ nhiệm HTXNN xã Yên Nghĩa), Trịnh Bá Sướng (sinh năm 1952, Hội viên Hội Nhà văn, Chiến sỹ Bảo vệ thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972, Ủy viên Ban Liên lạc Sư đoàn 308 Quân Tiên Phong, hiện là Thương binh, Hội viên hội CCB), Trịnh Bá Anh (Trưởng Chi Nhánh 2), Trịnh Bá Vang (từng làm Chủ nhiệm HTXNN xã Yên Nghĩa) tại nhà thờ ông Trịnh Bá Chinh (sinh năm 1970, Trưởng Tộc họ Trịnh Bá làng Yên Lộ) được dịch như sau:

“Ngày 9 tháng 12 năm Tự Đức thứ 10 (1857), dòng họ Trịnh ở xã Yên Lộ kính cẩn biên chép tên tuổi, ngày giỗ, mộ phần của các cụ Tổ tiên theo thứ tự:
Tổ khảo Trịnh Quý Công, tự là Đạo Chính, an táng tại xứ Đống Bằng trên diện tích 2 sào 10 thước, giỗ ngày 2 tháng 2
Tổ tỉ họ Nguyễn, hiệu là Từ Vinh, an táng tại xứ Bến, giỗ ngày 22 tháng 12
Tổ khảo Trịnh Lệnh Công, tự là Thuần Hiền, an táng tại xứ Con Rồng, giỗ ngày 16 tháng 11
Đường thúc (chú) Trịnh Bá Thùy, giỗ ngày 5 tháng 3
Tổ khảo Trịnh Lệnh Công, tự Trực Hòa, an táng tại xứ Con Rồng, giỗ ngày 17 tháng 4
Ghi chép về các ngày giỗ (ghi theo âm lịch):
- Giỗ tại nhà Văn Thu ngày 26 tháng 5, ngày 22 tháng 9, ngày 24 tháng 8, ngày 24 tháng 3 và dịp tết Nguyên đán.
- Giỗ tại nhà bà Chín ngày 30 tháng 6, ngày 30 tháng 7 và dịp tết Nguyên đán.
- Giỗ tại nhà Văn Thức ngày 3 tháng 12, ngày 11 tháng 2 và dịp tế Nguyên đán”.

Họ Trịnh Bá làng Yên Lộ có để lại bản “Phong tục làng Yên Lộ” ban hành ngày? tháng Tư năm Duy Tân 4 (1910) Do kỳ mục Nguyễn Văn Nhượng ký - Lý trưởng Trịnh Bá Vỹ áp triện với nội dung “Kỳ mục Lý dịch làng Yên Lộ, tổng La Nội kính cẩn đem các khoản phong tục trong làng kê khai ra”. Thứ nhất (Hình mục tức mục xử phạt) có 4 điều (Đánh nhau, Thông dâm, Vi phạm khoán ước của dân, Khám xét án mạng). Thứ hai (Hộ mục tức mục hộ dân) có 6 điều (Tiền nợ, Hội thu cấp, Lệ nộp tiền lan giai, Ly dị, Thu thóc trông đồng, Phân chia công điền công thổ). Thứ ba (Chính trị) có 4 điều (Hội họp kỳ mục bàn định việc làng, Bầu chọn kỳ mục lý dịch, Phận sự của kỳ mục, Tu bổ cầu cống đường xá). Thứ tư (Phong tục) có 10 điều (Tế tự, Lệ khao vọng những người thi đỗ cử nhân tú tài hoặc được ban phẩm hàm chức tước hoặc làm tổng lý, Mua ngôi thứ trong dân, Chia đều lộc thánh, Kỳ lý còn tại chức, Cấp ruộng cho binh lính, Hôn lễ, Tang lễ, Lệ đối với người già, Ngôi thứ chốn đình trung).

Họ Trịnh Bá làng Yên Lộ có Cụ Tổ “Nhất Đại Trịnh Quý Công Tự Đạo Chính kỵ nhật ngày 2 tháng 2 năm 1738” được an táng tại mộ phần xứ Đống Bằng trên diện tích 2 sào 10 thước (mộ giữa cánh đồng Đống Bằng, hướng Nam, đầu gối về núi Tam Đảo, chân đạp thủy) - Mà hiện nay Mộ phần của cụ táng tại gò Đống Bằng cao ráo, rộng chừng trên 600m2,dân làng Yên Lộ và quanh vùng vần gọi là Mộ cụ Tổ họ Trịnh ở Đống Bằng - Đặc biệt ngôi mộ theo các cụ trong làng Yên và con cháu trong dòng họ Trịnh Bá cho biết: Cụ Trịnh Quý Công tự Đạo Chính có thể là dòng dõi cháu nội của Chúa Trịnh Căn do biến đổi trong dòng tộc Chúa Trịnh Căn nắm quyền từ 1682 đến 1709. Bản Hán Nôm chép lại ghi là Tổ khảo (chứ không ghi là Thái Cao Tổ hoặc Thủy Tổ hay Viễn Tổ). Hội Đồng gia tộc họ Trịnh Bá làng Yên Lộ (tiêu biểu họ Trịnh Bá) cho rằng cụ Trịnh Quý Công tự Đạo Chính là thuộc cháu nội từ Chúa Trịnh Căn (có thể thân thế gia đình từ bố mẹ bị trái nghịch phép đạo...) nhưng vẫn được ân điểm và xin được Chúa Trịnh Căn ban phát đất đai và đặc quyền đưa về vùng đất trang Yên Lộ sinh sống và lập nghiệp (vì Yên Lộ là vùng đất cổ từ thời An Dương Vương do cụ Tổ Trịnh Huân lập lên. Như vậy, có thể nói cụ Trịnh Quý Công tự Đạo Chính có thể tên là Trịnh Bá Chính - Là con trưởng nên đệm là Bá) cách ngày nay phải trên 350 năm. Cụ đã từng làm quan trong triều, các anh em họ Trịnh cùng đều gần gũi ở quanh thành Thăng Long xưa - Vì vậy ngôi mộ của các cụ Tổ được con cháu và dân làng Yên vẫn thường gọi là “Mộ Tổ xứ Đống Bằng” an táng với trên diện tích 2 xào 10 thước, đào sâu tới 24 thước (mét ta) = 9mét 6 tây - Vì gia tộc có quyền thế mới đặt mộ cụ tổ mình và đào sâu lập lên mộ khu Đống Bằng to đến như vậy). Mộ tọa trên gò đống cao, trong quan ngoài quách, có nhiều gạch cổ (hiện nay con cháu đào xây ốp đá tìm thấy, tiến sĩ Nguyễn Đạt Thức (Cục Di Sản văn hóa) cho biết đó là gạch cổ thời Hán) mộ xây 4 tầng mái vòm (trong thời gian chăm sóc các con cháu trong họ những năm qua đã phát hiện được rất nhiều gạch cổ, đồ gốm, đồ đá cổ xung quanh ngôi mộ Tổ trên nền gò Đống Bằng và rất linh thiêng...). Qua các đời đã có nhiều vị “Tri phủ, Chánh tổng và Lý trưởng” ở quanh vùng đều tìm đến lễ cầu và còn có các vị Chủ tịch quận huyện cũng tự tìm về tế lễ, thắp hương cầu xin lộc. Có thể nói Chúa Trịnh Cương là cháu của cụ Tổ Đạo Chính... đến bà Thái Phi được thờ ở Đền Yên Lộ cũng là cháu chắt của cụ Tổ Đạo Chính. Về quan điểm này rất hợp với câu đối cổ treo ở nhà thờ của ông Trịnh Bá Anh nội dung câu đối: “Tích Trong Tại Diệp...” (có nghĩa là Truyền lại... giữa đời của nhà Trịnh tách ra), “Tiên Tổ Thị Hoàng/ Sóc Tòng Cửu Thế Dĩ Lai” (có nghĩa là Đời thứ 9 từ cụ Tổ tách ra - Cụ Tổ Chúa Trịnh Kiểm 1545-1570 (ở Sóc Sơn, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) tách ra là đời thứ 9. Chúa Trịnh Căn 1682-1709 (gặp nhiều trắc trở trọng việc lập người kế nghiệp như: Năm 1684 phong cho con thứ Trịnh Bách làm Tiết chế thay cho con trưởng Trịnh Vịnh chết nhưng 1687 phong cho cháu nội Trịnh Bính nối ngôi Trịnh Bách lại chết sớm, năm 1709 chúa Trịnh Cương chắt của Trịnh Căn mới lên nối ngôi Tiết chế đời thứ 7). Điều đó có nghĩa cụ “Tổ Nhất Đại Trịnh Quý Công Tự Đạo Chính” là cháu dòng chúa Trịnh Căn và là đời thứ 6 chính thống (3 đời sắc phong nối ngôi Tiết chế đều không thành do người kế nghiệp mất sớm tính từ cụ Tổ Trịnh Kiểm) - Đây cũng có thể khẳng định cụ Tổ khảo Trịnh Quý Công tự Đạo Chính là dòng trực hệ châm anh thế phiệt chắt đời thứ 9 từ Chúa Trịnh Kiểm). Cũng rất phù hợp với bức hoành phi cổ ở phủ chúa Trịnh (thôn Nghĩa Lộ thời Tây Sơn đã bị phá là “Tiên Tổ Thị hoàng lâm hữu hách/ Nhi Tộc Phỉ thụ phúc vô cương” ...

Họ TrịnhViệt Namtừng có câu “Trịnh tồn, Lê tại”. Nhớ lại kỷ niệm những năm cụ Trịnh Bá Doanh còn sống, cụ khi đó là Chủ tịch Hội đồng họ Trịnh (tỉnh Hà Tây cũ), người đã có nhiều công xây dựng phong trào các dòng họ của Hà Tây (cũ) và của họ Trịnh Việt Nam. Dấu ấn của cụ về việc làm các pho tượng hiện nay đang ngự trong Phủ Chúa, Thanh Hoá và ý tưởng xây dựng Lăng mộ chúa Trịnh Tùng đã có từ những năm 1995-1998 vẫn còn vẹn nguyên. Họ Trịnh Bá ở làng Yên Lội có nhiều chi nhánh, trong đó có nhiều người giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng Nhà nước, tham gia vào các hoạt động chính trị, ngoại giao, đóng góp cho sự phát triển của Đất nước - Chúng tôi đã thu thập tư liệu từ Hội Đồng Gia tộc họ Trịnh Bá, gia đình ông Trưởng chi họ Trịnh Bá Anh và gặp ông Nguyễn Văn Đa sinh năm 1949 (nguyên Huyện ủy viên huyện Hoài đức 14 năm, Bí thư, Chủ tịch UBND xã Yên Nghĩa đã nghỉ hưu) cho biết: Tại ngôi nhà số 8 (ngõ 141, phố Yên Lộ, làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội) có ông Trịnh Bá Anh làm Trưởng chi họ còn giữ được ngôi nhà thờ cổ xưa của cụ Trịnh Bá Vỹ (xóm An Chinh, Yên Lộ, Hoài Đức, Hà Đông) - Đồng chí Trường Trinh (nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam) để lại bút tích xác nhận ngày 15/5/1988:

“... Từ 7/1940-3/1941, tôi đã làm việc tại nhà đồng chí Trịnh Bá Bổng.. Đây là cơ sở của Xứ ủy Bắc Kỳ. Lúc này đồng chí Bổng là Bí thư chi bộ, kiêm Đội trưởng đội tự vệ... trước khi tôi về (đồng chí Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Ngân...). Cả gia đình đồng chí Bổng cha là Trịnh Bá Vỹ, mẹ là Nguyễn Thị Là, vợ là Nguyễn Thị Tụy đến các con... đã ủng hộ Cách mạng về vật chất, chăm lo ăn ở, đưa đón cán bộ, canh gác các cuộc họp của chúng tôi được chu đáo... Tóm lại, cả gia đình đồng chí Bổng đều một lòng theo Đảng”.

Qua ấn phẩm Kỷ yếu được lưu giữ tại nhà thờ, nơi đây năm 1936 Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương làng Yên Lộ được thành lập, trụ sở bí mật của Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1938-1945. Qua thời gian, gia đình ông Trịnh Bá Anh và em trai Trịnh Bá Uy (nguyên Trưởng Ban Kiểm tra, Chánh Thanh tra Đài Tiếng nói Việt Nam) đề xuất: UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 1719/QĐ-UBND ngày 27/4/2020 Về việc tổ chức gắn biển, dựng biển Địa điểm lưu niệm sự kiện cách mạng kháng chiến tại gia đình cụ Trịnh Bá Vỹ, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Đến nay, ngôi nhà ông Trịnh Bá Anh vẫn thường xuyên được quản lý, bảo vệ, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa chống xuống cấp và tuyên truyền nhằm phát huy giá trị biển lưu niệm. Người họ Trịnh thôn Yên Lộ rất tự hào về nghề thuốc, nghề dạy học mà tiếng thơm cụ Trịnh Bá Vỹ vẫn còn đến ngày nay.


Thạc sĩ Phùng Quang Trung - tác giả bài viết cùng Tiến Đạt Thức (Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
và các cụ trong dòng họ Trịnh Bá xem và giải nghĩa bản gỗ cổ ở nhà thờ Trưởng tộc họ

Chúng tôi đã gặp gỡ được các ông: Trịnh Bá Lam, Trịnh Bá Hảo, Trịnh Giang Nam, Trịnh Bá Trân, Trịnh Bá Trường, Trịnh Bá Vựng, Trịnh Bá Du, Trịnh Bá Hiền, Trịnh Quang Vinh, Trịnh Hùng Minh... Có thể cảm nhận sâu sắc về dòng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ: Là một cành nhánh của dòng họ Trịnh Việt Nam, một dòng họ danh gia vọng tộc, trải qua bao bụi trần thời gian, thăng trầm lịch sử, nhưng con cháu dòng họ Trịnh Bá vẫn đời nối đời phát triển trong tiến trình lịch sử hơn bốn ngàn năm của dân tộc như:

Khí anh linh hằng rọi dấu người xưa
Đuốc trí tuệ mong soi đường hậu bối.

Dòng họ có nhiều người giữ vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, tham gia vào các hoạt động chính trị ngoại giao, đóng góp cho sự phát triển của đất nước, nhiều con cháu thành danh làm PGS.TS, Thạc sĩ, Kỹ sư, Bác Sĩ, Nhà văn, Nhà nghiên cứu khoa học... Nhiều cá nhân đã đạt thành tựu cao trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học, trở thành các nhà giáo, nhà khoa học, nhà văn có uy tín. Họ Trịnh Bá rất chú trọng đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các bậc tiền nhân để lại các giá trị truyền thống của dòng họ gia đình.
 

THẠC SĨ PHÙNG QUANG TRUNG
Chủ tịch Hội đồng Thẩm định Viện Nghiên cứu 
Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Nguyên Trưởng phòng Văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch