(Thứ sáu, 09/05/2025, 12:46 GMT+7)

Trong một buổi sáng mùa thu Sài Gòn tuyệt đẹp, hương thu ngan ngát hương tràm, cánh văn chương chúng tôi ngồi đàm đạo cùng nhà thơ Hoài Vũ - tác giả của những Vàm Cỏ Đông; Anh ở đầu sông em cuối sông; Đi trong hương tràm; Hoàng hôn lặng lẽ vang danh từ buổi tôi còn chưa được sinh ra. Vậy mà ông thật trẻ, thật hiền từ và lãng mạn. Ly rượu đế nâng lên cay mắt lá mùa thu xào xạc hương tràm. Tại sao lại hương tràm cay mắt? Tại sao Hoài Vũ đã ngót nghét chín mươi vẫn trẻ trung như lời bài hát Anh ở đầu sông em cuối sông? Kể cũng thật lạ lùng. Thơ ông đã vậy còn văn xuôi cũng thuộc hàng đai đẳng lắm. Các tập truyện Tiếng sáo trúc; Rừng dừa xào xạc; Quê chồng; Bông xứ trắng; Bên sông Vàm Cỏ; Vườn ổi… đậm đặc chất văn xuôi Nam Bộ. Lại thêm mảng dịch thuật cũng vô cùng dày dặn. Đó là Người đàn bà bất hạnh; Nữ điền chủ cuối cùng; Hồn ma; A-sư-ma bé bỏng… đã làm lên một Hoài Vũ phong phú, đa tầng, một tên tuổi không thể vắng thiếu của nền văn nghệ cách mạng, nhất là với vùng đất phương Nam.

Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biền kháng chiến chống Mỹ. Ông đảm đương các cương vị: Ủy viên Tiểu ban văn nghệ khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định; Ủy viên Thường trực Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam; Tổng Biên tập Báo Văn nghệ Giải phóng và sau này có tới mười năm làm Thư ký cho Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Võ Trần Chí tương đương hàm Thứ trưởng.

Mà những ngày ấy cũng đã xa rồi.

Xa rồi sao vẫn quanh quất nơi đây như hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông sóng sánh trong đáy chén? Tôi bỗng chốc nhớ lại câu thơ của chính mình: Lấm bụi giang hồ kinh giấc mộng/ Ngựa xe thành lũy cũng hoang tàn/ Ta về cúi trước hai vầng cỏ/ Thăm thẳm cao xanh lệ ứ tràn ngày từng thi thố tứ tuyệt được nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm khen còn khuyên tôi hãy chỉ để im ở trong lòng bởi song thân còn sống không thể nào nhận thưởng mà chi.

Ừ thì cuộc đời có khác gì giấc mộng như Hoài Vũ kia từng viết về hoàng hôn: Anh phải về thôi xa em thôi/ Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi/ Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc/ Mà lời từ biệt chẳng nên môi. Sau này, nhạc sĩ Thuận Yến phổ thơ thành bài hát Chia tay hoàng hôn tuyệt hay mà Hoài Vũ chưa bao giờ nhắc về tác quyền lời thơ của mình. Nhạc sĩ Thuận Yến từng gửi một bức thư xin lỗi Hoài Vũ vì trong các bản nhạc hoặc chương trình giao lưu văn nghệ, người đời trong đó có cả Thuận Yến nhiều khi quên nhắc tác giả phần lời. Hoài Vũ cười thật hiền và luôn miệng cảm ơn nhạc sĩ.


Nhà thơ Hoài Vũ và hai tác phẩm mới nhất

Cái chất cách mạng của Hoài Vũ cũng rất lạ lùng. Như là hương tràm thơm thảo vậy: Dù đi đâu và dù xa cách bao lâu/ Dù gió mây kia đổi hướng thay màu/ Dù trái tim em không trao anh nữa/ Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau. Thơ Hoài Vũ là vậy, giản dị tới mênh mông, cứ tự nhiên dài rộng, thanh thoát như hương tràm, như nước sông Vàm Cỏ. Ngồi trò chuyện với ông sao mà thoải mái quá chừng. Chúng tôi mấy lần từ ngạc nhiên đã đột ngột bất bình khi mọi người nhắc ông vẫn chưa hề được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật dù quá xứng đáng. Như thế là như thế nào nhỉ? Chả nhẽ một người theo cách mạng từ tấm bé, đảm đương nhiều cương vị phụ trách văn nghệ miền Nam, nhất là những sáng tác có sự đóng góp không thể thiếu, góp phần làm nền tảng, làm trụ cột, là những dư vị lắng sâu đến bản chất của con người, của cuộc kháng chiến thần thánh của chúng ta thì phải bằng mọi cách đặt những giá trị ấy đúng với tầm vóc của chủ nhân mới là lẽ công bằng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật càng những đợt về sau càng có sự non lép đáng tiếc. Vậy mà nhà thơ Hoài Vũ, có lẽ nào chúng ta lại lãng quên?

Hoài Vũ vẫn ngồi kia, cười hiền hậu mà chúng tôi thì rơi nước mắt. Ông nhất định bảo chúng tôi hãy gọi ông bằng anh thôi, như hương tràm, như nước sông Vàm Cỏ kể chi tuổi tác. Chúng tôi, tất cả lại bồng bột theo ông nói về thơ ca, về cách mạng, nhất là những hy sinh vô bờ bến của nhân dân, của trí thức chúng ta, trong đó có các văn nghệ sĩ. Ông trầm tư giây lâu rồi bảo: “Tôi nhớ lắm sự hy sinh, thiệt thòi hiếm thấy của bác sĩ Phùng Văn Cung - nguyên Phó Chủ tịch lâm thời Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam; nguyên Phó Thủ trướng Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã nghe lời cụ Hồ bỏ đi chức tước, vô số nhà cửa, biệt thự, phòng khám ở Sài Gòn lên chiến khu tham gia cách mạng trong lúc khó khăn trứng nước. Rồi giải phóng, cả nước hân hoan thì những người trí thức dường như bị dôi ra. Họ cũng tự biết phận mình. Cụ Phùng Văn Cung lúc cuối đời chỉ còn hai bàn tay trắng. Cụ là một trí thức tiêu biểu của cách mạng miền Nam đã cống hiến mọi sức lực, của cải, nhất là trí tuệ và đã thanh thản ra đi với hai bàn tay trắng”. Chúng tôi ngồi lặng đi hàng phút. Tôi nhiều lúc còn không hiểu nổi tại sao lại như thế. Nhưng giây phút này đây, ngồi bên nhà thơ Hoài Vũ, tôi dường như đã tìm được câu trả lời mà trĩu nặng, vân vi. Chắc chắn người đi làm cách mạng trước hết phải biết quên mình, phải biết phụng sự nhân dân và Tổ quốc. Còn những thứ khác ư? Nhà cửa ư? Giải thưởng ư? Có cần thiết phải kiếm tìm chúng, phải nhắc nhở về chúng, dù chỉ là thực hiện một lẽ công bằng?

Ngồi bên cạnh, nhà thơ Phan Hoàng cũng không biết nói gì bởi thực ra mọi lời nói có lúc đã là thừa. Thật may thay, lúc đó lại văng vẳng lời thơ: Đây con sông như dòng sữa mẹ/ Nước về xanh ruộng lúa vườn cây/ Và ăm ắp như lòng người mẹ/ Chở tình thương trang trải bên ngày... Ơi Vàm Cỏ Đông! Ơi con sông/ Nước xanh biêng biếc chẳng thay dòng/ Đuổi Pháp đi rồi, nay đuổi Mỹ/ Giặc đi rồi sông càng trong... Ở tận sông Hồng, em có biết/ Quê hương anh cũng có dòng sông/ Anh mãi gọi với lòng tha thiết/ Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ Đông!

Thơ ơi! Những lúc này thơ chính là lẽ sống, là niềm tin, là sự công bằng. Thơ công bằng lắm! Những thứ thấp kém làm sao trà trộn được vào thơ? Thời gian và thơ luôn song hành và công bằng biết mấy. Một Hoài Vũ với những câu thơ ân tình với chính mình mà như nói hộ biết bao người: Anh như cơn gió bay khắp chốn/ Để lại em với ruộng, với vườn/ Mồ hôi đổ giữa ngày mùa bận rộn/ Nước mắt trào lạnh buốt những đêm sương... vừa giản dị mùa màng mà đằm đẵm nỗi người vấn vít quê hương nguồn cội. Chỉ có Hoài Vũ mới viết rằng: Đất quê ta xanh xanh triền lá/ Giặc nhảy vào lá hóa rừng chông/ Nước quê ta dập dềnh tôm cá/ Giặc lội vào, nước dựng thành đồng... Thơ đã như thế thì con người làm sao mà không hiền hậu được? Càng làm sao uốn éo với xung quanh? Như bông lúa mẩy chỉ biết cúi đầu im lặng, dâng hạt gạo thơm cho đất nước, nhân dân. Từ buổi có em, anh thêm yêu đất/ Quý gạo Nàng Thơm, thương cá bống kèo/ Một tiếng ầu ơ cũng đầm nước mắt/ Anh đi rồi miền hạ nhớ mang theo

Hoài Vũ là như vậy đấy. Thơ của ông, văn xuôi của ông, những tác phẩm ông dịch thuật chính là những viên gạch vững chắc góp phần xây nên nền văn học nghệ thuật của chúng ta. Dù cố dằn lòng, lớp trẻ chúng tôi vẫn trào lên một điều gì ứ nghẹn. Có lẽ nào chúng ta quên Hoài Vũ? Lỗi này bởi do đâu? Hôm tôi dự buổi trao Huân chương Độc lập hạng Nhì cho nhà thơ Hữu Thỉnh tại Nhà hát lớn Hà Nội, tôi thấy Hữu Thỉnh đứng sừng sững, lồng lộng dưới tiếng hát quốc ca, trang nghiêm đón nhận tấm huân chương từ Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc. Hữu Thỉnh rất xứng đáng. Mọi thứ rất công bằng với nhà thơ Hữu Thỉnh. Còn Hoài Vũ? Còn nhiều người xứng đáng khác, chúng ta phải làm sao đây để không trở thành kẻ vô ơn? Câu hỏi này chúng tôi nghĩ rằng chính mình phải là người trả lời mới là đạo lý.

Sau phút trầm sâu, người cất tiếng cười trong sáng đầu tiên lại chính là Hoài Vũ, một vị lão trượng trong làng văn tuổi ngót chín mươi mà nụ cười hiền sáng lắm. Hoài Vũ thao thao nói về lịch sử, còn thuộc những gì tôi viết, còn động viên và chia sẻ, thậm chí chỉ ra những bất cập trong sáng tác văn chương. Và ông luôn miệng khen tiết trời mùa thu thật đẹp, ông bảo mùa thu mới là mùa khởi đầu, mùa dẫn nhịp cuộc đời. Mùa thu đi ngoài kia trong hương tràm, trong nước sông Vàm Cỏ. Khi chúng tôi trở về bờ bãi sông Hồng, vẫn còn nằng nặng hương tràm trong sắc nước mùa thu thơm buốt Vàm Cỏ Đông.

*
*   *

Tôi luôn không nguôi nhớ về nhà thơ Hoài Vũ. Mà ông đang khỏe mạnh ở mảnh đất phương Nam. Tôi vào Sài Gòn bây giờ lúc nào cũng muốn gặp Hoài Vũ. Ông cũng luôn rất muốn gặp tôi, dù không phải để nói gì, dù chỉ là để tươi cười rồi im lặng.

Hoài Vũ sinh năm 1935, đã tiến sát mốc bách niên mà vẫn luôn tươi vui, khỏe khoắn. Nói thực cũng là nói chơi chơi vậy, chứ bách niên khỏe khoắn nghĩa sao đây? Chân cẳng đã yếu đi, mắt đã nhoà ngấn lệ chảy hoài vào trong rưng rức. Sức khỏe tinh thần ư? Những gì đã vượt qua và những gì đang vượt dẫu có là tinh thần vượt núi băng ngàn thuở đôi mươi, tinh thần lửa thép ngày làm Văn nghệ Giải phóng, tinh thần đá nát vàng phai ngày bao cấp đến hôm nay ngang ngửa thời kinh tế thị trường đùng đùng vật chất lên ngôi thử hỏi tinh thần ông lão bách niên ấy có còn chống chịu được bao năm? Tôi ở đâu cũng thấy thương Hoài Vũ, cũng hỏi một người như ông với những Vàm Cỏ Đông; Anh ở đầu sông em cuối sông; Đi trong hương Tràm; Hoàng hôn lặng lẽ... mà đến bây giờ, nhà thơ vẫn chưa chạm tới Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật? Đã không còn là sự bi ai mà chính là sự vô tâm đến lạnh lùng bỏ quên đạo lý của chúng ta chăng? Chúng ta đã bỏ mặc những người như Hoài Vũ? Chúng ta đã bỏ mặc những gì từng cứu giúp, bồi đắp vết thương thể xác và tâm hồn của một thời bom đạn mịt mùng, đói kém, thiếu thốn ngặt nghèo dễ dàng như vậy? Chúng ta đang chạy theo cái gì? Vật chất ư? Đã có không ít người là quan to, thậm chí rất to, bổng lộc phi pháp đã phải nhét vào những chiếc cặp hàng triệu đô la, đến lúc ra tòa đổ cho con cái cầm làm của riêng, đổ cho sự lú lẫn quăng vứt những chiếc ba lô, chiếc cặp triệu đô vào gác xép, nhà vệ sinh, thùng chứa đồ cũ rồi quên béng? Đây là căn bệnh gì vậy? Đây là loại người gì khi vừa trước đó tới các trung tâm hội nghị rao giảng về đạo đức, về nhân cách, về trách nhiệm công dân.


Nhà thơ Hoài Vũ cùng các bạn văn

Với Hoài Vũ thì sao? Một người đã viết những câu thơ: Vàm Cỏ Đông đây ta quyết giữ/ Từng mái nhà nép dưới rặng dừa/ Từng thửa ruộng ngời đen màu mỡ/ Từng mối tình hò hẹn sớm trưa (Vàm Cỏ Đông); Ôi bát ngát chân trời miền hạ/ Tím tình yêu tím cả ước mong/ Gió nhớ thương ai mà lay bờ lá/ Để bìm bịp kêu con nước lớn ròng... Thơ Hoài Vũ đấy! Thế hệ ông bà ta, mẹ cha ta và chúng ta hôm nay vẫn đang nghe thơ, và hát những lời thơ Hoài Vũ. Hoài Vũ vẫn đang còn sống kia, bằng xương bằng thịt. Nhà thơ bách niên - riêng đâu tượng đài tình yêu nơi cuối đất vẫn ngồi, kia giản dị mà lồng lộng mây trời. Chúng tôi, những kẻ hậu sinh chẳng biết nói gì với ông, chỉ thấy bồn chồn, bứt rứt và có phần xa xót. Xa xót về cái gì? Xa xót về việc ông chưa được Giải thưởng Nhà nước ư? Giải thưởng đã phải là hiện hình những tiêu chí lạnh lùng còn không ít sự trà trộn vào trong đó? Xa xót vì không ai thực hiện cái đạo lý và bổn phận, trách nhiệm tối thiểu của những người cầm bút đồng thời, sau thời của ông? Thực là vô cùng khó diễn tả mà chỉ thấy trong lòng ấm ức.

Hạnh phúc đến xanh như màu lá/ Và nồng thơm mùi thơm của rạ/ Đêm xôn xao sao gắn đầy trời/ Tình anh là Vàm Cỏ em ơi (Anh ở đầu sông em cuối sông); Em gởi gì trong gió, trong mây/ Để sáng nay lên Vàm Cỏ Tây/ Hoa tràm e ấp trong vòm lá/ Mà khắp trời mây hương tỏa bay(Đi trong hương tràm).

Ô hay! Đích thực là Hoài Vũ đang hạnh phúc tràn đầy. Đích thực là Hoài Vũ đã thấy được hạnh phúc lớn của nhân dân mình, Tổ quốc mình trong hạnh phúc lứa đôi vĩnh cửu. Đã có một thời kỳ, chúng ta định quên đi hạnh phúc lứa đôi, định lấy giá trị chung của hạnh phúc là toàn thể nhân dân, nhất là các tập thể từ cao đến thấp phải hạnh phúc một cách đồng loạt, giống nhau như đúc mới an lòng.

Cái khác người của Hoài Vũ chính là nhìn ra chi chít sợi tâm hồn khác nhau trong mỗi cá nhân mới là điều chính yếu để làm nên rộng dài Tổ quốc.

Hoài Vũ có một loạt bài viết về những dòng sông. Một người như Hoài Vũ tất nhiên phải mê sông đến tận cùng: Anh ở đầu sông em cuối sông; Vàm Cỏ Đông; Em về bên kia sông; Xa rồi sông Hậu; Trời mênh mông, nước mênh mông; Tâm tình trước ngã ba sông... và trong Chia tay hoàng hôn là một câu thơ về sông hay tuyệt: Xa em, anh như trưa nắng đi trên cát/ Thèm một dòng sông, những cánh đồng.

Thế hệ của Hoài Vũ đang dần thưa vắng, lão ngoan đồng suýt soát bách niên Hoài Vũ ngay từ đầu đã chọn hướng đi riêng cho mình, cho thơ mình. Những cống hiến rất có giá trị nếu không muốn nói là xuất sắc của Hoài Vũ với văn chương, với cách mạng là hết sức đáng quý. Ngày trước, khi nhà văn Văn Lê còn sống, đã rất nhiều lần muốn tôn vinh bậc đàn anh Hoài Vũ. Đến lứa chúng tôi, U50 đã là cách ông một, hai thế hệ sao thấy ông vừa thật gần vừa quá xa xôi. Thật gần vì ông đang ở đây, bằng xương bằng thịt. Thơ của ông đang vang lên bằng vô số bài hát. Trong lời bài hát Chia tay hoàng hôn cũng chính là tâm can của lão ngoan đồng: Anh phải về thôi xa em thôi/ Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi/ Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc/ Mà lời từ biệt chẳng nên môi…

Anh em văn nghệ sĩ trẻ chúng tôi từ Bắc chí Nam ai cũng mến thương Hoài Vũ. Ở ông có điều gì đó rất đặc biệt, rất hấp dẫn của một con người hết sức từng trải mà lại hết sức ngây thơ. Trong chuyến đi Trường Sa vừa qua, tôi đem theo mấy tập sách mà ông vừa tặng ở Sài Gòn. Hoài Vũ viết văn cũng tình thương mến thương lắm. Ngày trước là các tập truyện: Tiếng sáo trúc; Rừng dừa xào xạc; Quê chồng; Bông sứ trắng; Bên sông Vàm Cỏ; Vườn ổi... càng cho thấy sự xum xuê tươi thắm của một Hoài Vũ xanh thẳm nỗi đời chất chứa câu văn. Những câu văn trong sáng mà ôm chứa ở trong ấy bao nỗi nhân tình thế thái đều được Hoài Vũ gạn đục khơi trong đến tận cùng.

Tôi và nhà thơ Phan Hoàng nhiều lúc chỉ biết ngồi bên Hoài Vũ và im lặng. Biết nói gì đây? Biết làm gì đây với lão ngoan đồng phơ phơ đầu tóc bạc đã đi qua cơ cực, giặc giã, đói nghèo và những chuyển động rùng rùng thời cơ chế thị trường sôi sùng sục. Hoài Vũ như dòng sông, vô số dòng sông khao khát vươn mình ra biển. Để hòa tan mình trong thăm thẳm vô cùng ư? Để góp máu của mình cho biển mặn? Hay là góp niềm tin của mình để biển xanh vằng vặc? Nào đã mấy ai đi hết biển khôn cùng?

Tại sao tôi không nguôi nghĩ về Hoài Vũ? Tại sao câu hỏi cứ vang lên như cắt cứa trái tim tôi? Lứa chúng tôi đang trong buổi thanh bình với những xán lạn và thuận lợi của mình thì cần gì phải thao thức với Hoài Vũ? Thậm chí trước lúc gặp ông (năm 2022), tôi còn tưởng Hoài Vũ đã mất lâu rồi. Tôi còn tưởng thành phố nào đó, tỉnh, huyện, vùng đất quê hương nào đó đã có tên đường, tên phố, tên trường học đặt tên ông như những người đồng thời với ông cũng đã được như thế. Cơ mà Hoài Vũ vẫn khỏe mạnh ngồi trước cánh văn nghệ trẻ chúng tôi, cười trong ngấn mắt sóng sánh nước, nhắc những câu chuyện lơ lắc bưng biền, những là dòng nước, bờ tôm, bóng dừa, hương tràm, trời mây, thửa ruộng ngời đen màu mỡ… với vô số mối tình hò hẹn sớm trưa... Thì tôi mới thấy, cái cách đong đếm hạnh phúc ở một con người, ở một thế hệ với những giá trị riêng không thể nào dễ học, càng không thể quy hoạch theo những tiêu chí vô cảm mà chúng ta không ít lúc từng áp dụng với nhau, với văn chương. Hoài Vũ, với lứa chúng tôi, không riêng là tượng đài tình yêu với vô vàn câu hát đi cùng theo năm tháng mà còn là một trong những tượng đài về sự cống hiến lặng thầm, hy sinh cái riêng cho cái chung rộng lớn. Ở tận sông Hồng, không chỉ riêng sông Hồng, còn là những sông Thao, sông Lô, sông Đà, sông Mã, sông Thương, sông Lam, sông La, sông Hiền Lương, sông Đắc Krông, sông Pô kô, sông Ba... đến chín nhánh Cửu Long giang hùng vĩ… đều mang rất nhiều phần máu thịt của nhân dân, của tổ tiên ngàn đời trong đó có tổ tiên nhà thơ Hoài Vũ để ông ngân lên khúc hát các dòng sông.

Ôi Hoài Vũ! Ông đã sắp trọn con đường với sông, với biển! Mà ông vẫn trong ngần, thơm ngát sắc hương hoa!

Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI