(Thứ tư, 08/10/2025, 05:49 GMT+7)

Trong số những người góp công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp ở vị trí Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Theo Đại Việt Sử ký Toàn Thư (Trọn bộ - Nhà xuất bản Thời đại): “Nếu nhà sư Vạn Hạnh là người nêu ý tưởng thì Thái sư Đào Cam Mộc là người tổ chức và trực tiếp chỉ huy việc đổi ngôi không đổ máu và diễn ra nhanh chóng. Triều Lê, vào đời vua Long Đĩnh (1006-1009), bắt đầu mục nát, vua làm việc càn rỡ, tàn bạo. Năm 1005, Lê Long Đĩnh giết vua là anh trai Lê Trung Tông (Lê Long Việt) để lên ngôi. Trong nước lòng dân oán hận, bên ngoài giặc Tống rình rập xâm lấn. Năm 1009, Lê Long Đĩnh băng hà, lúc bấy giờ, uy tín của quan Thân vệ Lý Công Uẩn (Thân vệ điện tiền đô chỉ huy sứ - là vệ binh của vua) ngày càng cao cả trong và ngoài triều. Nhà sư Vạn Hạnh từng nói với Lý Công Uẩn rằng: “Mới rồi tôi trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay, người đứng đầu muôn dân, chẳng phải ông thì còn ai đương nổi nữa! Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may muôn năm mới gặp một lần”.

Đó là ý tưởng táo bạo và hợp thời của nhà sư Vạn Hạnh. Tuy nhiên, để thực hiện thành công ý tưởng đó và góp phần xây dựng triều Lý hưng thịnh cần có sự trợ giúp đắc lực của quan Chi hậu Đào Cam Mộc. Khi ấy quan Chi hậu Đào Cam Mộc cho biết Công Uẩn có ý muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói với Lý Công Uẩn rằng: “Bấy nay, chúa thượng ngu tối và bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán không cho hết thọ; con nối thơ ấu, chưa cáng đáng nổi tình thế khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu, bách thần không ưa, dân chúng ngong ngóng tìm thân chúa. Sao ông không nhân lúc này vận dụng mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa thì xem dấu cũ của Thanh Vũ, gần thì xem việc làm của Đinh Lê, trên thuận lòng trời, dưới hợp lòng dân, cứ khư khư giữ chút tiết hạnh bề tôi nhỏ nhoi hay sao?”. Lý Công Uẩn sợ Đào Cam Mộc có mưu khác nên dọa bắt nạp cho bá quan, Đào Cam Mộc không sợ mà nói tiếp: “Tôi thấy việc trời và người như thế cho nên mới dám nói ra. Nay ông muốn tố cáo tôi thì tôi cũng xin thưa rằng tôi đâu sợ chết”. Lý Công Uẩn nói: “Tôi đâu nỡ tố cáo ông, chẳng qua vì sợ lời nói của ông mà tiết lộ ra thì chúng ta đều phải chết nên mới răn như thế đó thôi”.

Hôm khác Đào Cam Mộc lại bảo Công Uẩn rằng: Người trong nước ai cũng bảo họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che giấu được nữa. Chuyển họa thành phúc chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn ngại ngần gì nữa”.Công Uẩn nói: “Tôi đã hiểu rõ ý của ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu theo như lời ấy thì nên tính kế thế nào?”. Cam Mộc đáp: “Ông là người công minh, dung thứ, khoan hồng nhân từ, lòng người chịu theo. Hiện nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi, ông nhân thế lấy nhân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được”.

Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ để chậm sẽ sinh biến, mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui lòng theo cả, ngay ngày hôm ấy đều họp cả ở trong triều, bàn nhau rằng: Hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét Tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nổi mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau tôn phù Thân vệ làm thiên tử, phút chốc có xảy tai biến, chúng ta có giữ được cái đầu không?Bấy giờ, mọi người vui vẻ nghe lời cùng nhau dìu Lý Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử lên ngôi Hoàng đế, trăm quan đều quỳ dưới sân, trong ngoài đều hô vạn tuế vang dậy cả trong triều”.


Miếu Đào Xá thờ Thái sư Á vương Đào Cam Mộc ở Hoàng Long - Phú Xuyên - Hà Nội

Theo sử ghi như vậy thì: Cuộc thay ngôi diễn ra nhanh chóng. Vai trò của Đào Cam Mộc như vậy thực là quan trọng. Chắc chắn là ông đã ngầm vận động các triều thần và chắc chắn đã nắm chắc lực lượng vũ trang nên “mọi người (mới) vui vẻ nghe theo” như sử đã ghi. Thực tế trong triều tất thể nào cũng còn hoàng thân quốc thích nhà Lê cùng những kẻ cận thần sủng ái của Lê Ngọa Triều. Vậy mà cuộc đảo chính diễn ra êm thấm, “vui vẻ” không có một phản ứng thì đủ tỏ sức sắp đặt, bài binh bố trận tài tình của Đào Cam Mộc, tất nhiên phải có cả tác động của sư Vạn Hạnh. Cuộc đổi ngôi chủ từ họ Lê sang họ Lý được diễn ra nhanh chóng - Lúc ấy mới thấy vai trò của Đào Cam Mộc cực kỳ quan trọng, sự sắp xếp ngầm của ông và vận động các quân thần của ông đã thành công. Trên thực tế trong triều, không phải không có thế lực ủng hộ hoàng thân quốc thích và sung bái triều đại gia tộc vua Lê Ngọa Triều. Vậy là cuộc đổi ngôi đã diễn ra êm thấm vui vẻ, không có phản ững gì. Chứng tỏ sự sắp đặt bài binh bố trận tài tình của Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, sự kiện này đã mở ra triều đại nhà Lý, một vương triều rực rỡ hưng thịnh kéo dài 216 năm (1009-1225) huy hoàng.

Theo các cụ cao niên ở Làng Đào Xá, xã Phượng Dực Tp. Hà Nội trao đổi: “Tương truyền, cụ Đào Cam Mộc sinh ngày 16 tháng 8 năm Kỳ Hợi (939) tại làng Tràng Lang quê nội (chỉ ở lúc còn nhỏ một cuộc đời tuổi thơ đầy dấu ấn, kỷ niệm), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa và quê ngoại ở làng Nam Thạch cùng huyện. Đào Cam Mộc mồ côi cha từ nhỏ, chủ yếu ở quê mẹ. Nhà nghèo phải mò cua bắt ốc để sinh sống, được cái là Đào rất khỏe. Vào tuổi tráng niên, Đào Cam Mộc đã rất nổi tiếng về chí thông minh và sức khỏe hơn người. Một hôm, thuyền vua Lê Đại Hành tuần du qua làng Nam Thạch bị mắc cạn ở đoạn sông Mã (bấy giờ gọi là Cựu Mã Giang), thấy quân lính loay hoay mãi mà không khắc phục được. Đang lặn ngụp dưới sông, chành thanh niên Đào Cam Mộc đã tự nguyện dùng mưu trí, sức khỏe, liền ghé vai nâng thuyền lên và thế là thuyền dịch chuyển được trước sự ngạc nhiên, thán phục của mọi người. Vua Lê Đại Hành bèn tuyển Đào Cam Mộc vào đội vũ sĩ vời ra giúp nước. Và thế là từ đấy chàng Đào theo vua Lê đi chinh chiến, từ thân phận bình dân trở thành tướng giỏi. Đào Cam Mộc mất tại Tư dinh (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội) vào tháng Giêng năm Ất Mão (1015). Sau khi ông qua đời, vua Lý Thái Tổ truy tặng ông là Thái sư tức Á Vương Đào Cam Mộc...”

Những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế (có công của nhà sư Vạn Hạnh) và Đào Cam Mộc được sếp ở vị trí đệ nhất khai quốc công thần. Nếu nhà sư Vạn Hạnh nêu ý tưởng, thì Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc là người tổ chức và trực tiếp chỉ huy việc đổi ngôi không đổ máu diễn ra êm thấm. Sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi hoàng đế, Đào Cam Mộc đã có tầm nhìn quan trọng về việc định đô. Hoàng đế đã bàn với nhà sư Vạn Hạnh, ngài Đào Cam Mộc và các vị quan trong triều tìm nơi đất mới để định đô và phát triển sự nghiệp nhà Lý. Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, viết thủ chiếu rằng (theo Đại Việt Sử ký Toàn Thư): “... Trẫm rất xót thương, không thể không dời đi nơi khác. Huống chi đo cũ của Cao Vương ở thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thể rồng cuộn, hổ ngồi, ở giữa Nam-Bắc-Đông-Tây, tiện hình thế núi sống sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt chỗ ấy là hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời”.

Các cụ cao niên trong làng Đào Xá nói: Sau khi tuần thú, tìm nơi định đô, phong thủy tốt - Hà Nội ngày nay, nơi có thế đất rồng cuộn, hổ ngồi, lưng tựa núi Ba Vì Tản Viên Sơn, mặt nhìn ra sồng Hồng cuộn đỏ phù sa... việc bố trí quân cơ cũng rất tốt. Lý Thái Tổ quyết định dời đô và ban “Chiếu dời đô” được lan truyền khắp bàn dân đại Việt lúc đó. Ngài Đào Cam Mộc được giao trọng trách tổ chức cuộc hành quân lịch sử này cách 1015 năm về trước và hơn ngàn năm về sau đến tận bây giờ mọi người đều phải kính phục tầm nhìn của Lý Công Uẩn, các tướng sĩ thời đó hết sức khoa học và nhân văn của Đại Việt trong đó có công lớn thuộc về Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc. Khi triều chính tạm ổn định, tháng 2 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) nhà vua cùng phò mã Đào Cam Lộc đi kinh lí các tỉnh miền ngoài để tìm đất định đô lâu bền. Và quyết định rời đô về Thăng Long của Lý Thái Tổ cũng có một phần đóng góp ý tưởng và công sức của Đào Cam Mộc. Bản "Tự phả chùa cổ Đông Hải", do Minh Tuệ thiền sư trụ trì chùa chép năm Canh Tý (1840), cũng theo Ngọc phả thời Lê do Quản giám bách thần Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc (1557) ghi rằng: Chùa này có từ thời Đinh - Tiền Lê, gần biển nên gọi là chùa Đông Hải. Thời trẻ Đào Cam Mộc từng tu học, giỏi võ, thông văn được sư tổ cho đi tìm minh quân, sau đó ông vào Hoa Lư làm quan cho nhà Tiền Lê, nhà Lý. Tháng 6/1010, Lý Thái Tổ phong Đào Cam Mộc chức Thiên Đô tiên phong tướng quân chỉ huy cuộc dời đô, tại đây triều đình làm Lễ tế cáo trời đất, xuất quân nên từ đó đổi tên là chùa Thiên Đô. Tương truyền, khi được vua Lý Thái Tổ trao trọng trách dời đô, Đào Cam Mộc chuẩn bị hai đoàn thuyền gồm 300 chiếc, một ngả đi đường biển qua vùng đất huyện thành Đại La; một ngả nơi sông Nhị cũng lên thành Đại La. Khi thuyền đến chân thành, thấy có hai con rồng vàng hiện ra chào đón, nhà vua mới gọi là kinh thành Thăng Long. Thấy đất Vũ Bị thế đẹp, dân làng thuần hậu, Phò Mã xin vua nhận đất để sau này đưa công chúa về ở. Tại đây, vợ chồng ông khuyên dân nên tương thân tương ái, sử sự tương trợ giúp nhau cấy cày, xây dựng thuần phong mỹ tục. Công chúa An Quốc xuất tiền riêng mở mang ruộng đất, xin vua cha dựng bia thế nghiệp, đến nay phủ Vũ Bị còn giữ hai tấm đá cổ, các nhà chuyên môn gọi là Thạch Kiệt, hiểu chung là mốc ruộng đất "Sắc cấp tứ" nhà vua cấp cho người có công. Thạch Kiệt được dựng vào năm Hồng Thuận thứ 5, ngày 25/2 năm 1513, ghi chép trên 140 mẫu ruộng ở các xứ trong vùng, xa nhất là Đồng Ba, thuộc xã Đồn Xá, huyện Bình Lục. Các di tích thờ vợ chồng Đào Cam Mộc đều có đền, miếu nguy nga, được các vua nhà Nguyễn ban 10 đạo sắc phong, các nhà khoa bảng đề thơ ca tụng... Hằng năm dân làng thường xuyên mở hội.

Năm Ất Mão, năm thứ 6 (1015) Tống, Đại Trung Tường Phù năm thứ 8. Mùa xuân tháng Giêng, cho Trịnh Văn Túc làm thiếu bảo, cụ Đào Cam Mộc mất - Vua truy phong tặng Thái sư Á Vương - Vua Lý cho đục tượng thờ ở chùa Hưng Phúc (Tràng Lang quê nội) và cho quê ngoại Nam Thạch lập đền thờ phụng bề thế. Sau đó một thời gian, ở làng Bùi Hạ (Yên Phú, Yên Định) cũng có Nghè thờ Đào Cam Mộc vì theo truyền thuyết thì xưa kia, cứ về mùa lũ, nước sông Mã cũ (tức Cựu Mã Giang) thường gây ra lụt lội, ngập úng. Trong vài lần lụt lội, bài vị và đồ thờ ở đền thờ Đào Cam Mộc thôn Nam Thạch cứ trôi dạt về thôn Bùi Hạ. Lần đầu tiên biết là đồ thờ ở đền Đào Cam Mộc, dân làng Bùi Hạ đều đem trả về cho làng Nam Thạch. Nhưng lần lụt thứ hai, rồi thứ ba, đồ thờ và bài vị ấy vẫn cứ trôi về chỗ cũ ở sát gò đất cao của làng Bùi Hạ. Dân làng Bùi Hạ cho là chuyện thiêng nên đã quyết xây dựng một ngôi đền để thờ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và đặt tên cho nó là Nghè Hạ (còn đền ở Nam Thạch gọi là Nghè Thượng). Từ đó, hai làng Bùi Hạ và Nam Thạch đã kết nghĩa cùng nhau và cùng tổ chức tế lễ vào các ngày 23, 24, 25 tháng 11 âm lịch hàng năm. Ngoài kết nghĩa (kết chạ) với làng Bùi Hạ, làng Nam Thạch còn kết nghĩa với làng Tràng Lang (quê nội). Dù cách xa nhau tới hơn chục km nhưng nhân dân của hai làng vẫn tìm cách giúp đỡ lẫn nhau keo sơn.

Cụ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc có người vợ được vua Lý Công Uẩn gả cho là Công chúa An Quốc, Đào Cam Mộc còn có một vợ nữa đó là bà Đỗ Thị Uyển (con quan Đỗ Hương ở làng Vân Tra (An Đông, An Dương, Hải Phòng) bà Uyển sinh được hai người con trai là Đào Lôi và Đào Điện - Cả ba cha con đều là đại thần của vương triều Lý. Di tích đình, chùa Vân Tra, chùa Nhân Lý (Cao Nhân, Thủy Nguyên, Hải Phòng) được xếp hạng cấp quốc gia - nơi mãi mãi ghi nhân công đức của vợ chồng, cha con Đào Cam Mộc (Thái úy, Thành Quốc Công Đào Lôi được thờ phụng ở đình. Thân mẫu Đào Lôi, được táng ở gần chùa, chùa Vân Tra, có bàn thờ thờ bà Đỗ Thị Uyển. Cụm di tích đình và chùa Vân Tra xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1994).

Ở Cổ Loa, Đông Anh (tư dinh của Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc) có con đường Đào Cam Mộc (xã Uy Nỗ, thị trần Đông Anh và xã Việt Hùng) - Trước đây phần đất này trồng rất nhiều cây trám nên còn gọi là bãi Trám (cụ Đào Cam Mộc là tướng giỏi dưới triều vua Lê, lại ham học hỏi, đọc sách thánh hiền, thông kinh sử, thiên văn, am hiểu vận trời đất, các quan trong triều bấy giờ rất kính nể, được nhân dân tôn ông là Đào Trạng Văn Quan, Đệ nhất công thần lập lên triều nhà Lý), người có công lớn giúp vua Lý Công Uẩn trong việc dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, ông mất 15 tháng Giêng năm Thuận Thiên thứ 6 (1015).Đào Cam Mộc có vợ là công chúa An Quốc và còn có một bà vợ nữa là Đỗ Thị Uyển con quan Đỗ Hương ở làng Vân Tra, xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Bà Uyển sinh 2 con trai là Đào Lôi và Đào Điện. Đào Lôi sinh năm 987 làm quan triều Lý, sau khi góp công dẹp yên loạn 3 vương được Lý Thái tông phong làm Tả phúc tâm, sau được phong Thái úy tước Thành quốc Công. Hiện nay, ở quận 8, thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Đào Cam Mộc để ghi nhớ tới vị đệ nhất công thần, người có công đầu trong việc tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi vua, khai lập nên vương triều nhà Lý.

Thạc sĩ Phùng Quang Trung - Chủ tịch Hội đồng Thẩm định, Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Nguyên Trưởng phòng Văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch