(Thứ ba, 19/08/2025, 04:59 GMT+7)

Cùng tuổi, cùng lính tráng với nhau, sau này lại ở cùng một làng nên tôi đã đọc khá kỹ về Phùng Văn Khai, từ những truyện ngắn đầu tay Thuở binh nhì rồi đến Thơ bên cột mốc, Hồn Quỳnh, Bên kia sông, Hư Thực, Hồ Đồ... Ngày ấy còn đọc và theo dõi sát, chứ từ khi ông chuyển sang viết tiểu thuyết dã sử (lịch sử) thì thú thật mà nói rằng, không thể đọc kịp những gì ông đã viết, nhưng những gì đã đọc thì tự thấy rằng hình như ông đã tìm được đúng cái nguồn mạch, đúng cái sở trường viết. Ông như người đào giếng, đã đào đúng cái nguồn mạch thì cứ thế nguồn cảm hứng như nước tràn về, nước cứ chảy, người cứ đào và người uống cứ uống, người chê cứ chê. Con công thì múa con nghê thì chầu. Việc của nhà văn là viết, cứ viết, cứ đi rồi sẽ đến.


Nhà văn Phùng Văn Khai cùng các diễn giả
tại Hội thảo sách "Danh tướng triều Trần trong ba lần đại thắng Nguyên - Mông"

Để đi được đến ngày hôm nay, để tìm cho được cái “căn cước viết” của mình, Phùng Văn Khai đã phải “thử đao” trên các loại thể và chủ nghĩa/trào lưu sáng tác khác nhau. Ta hãy bỏ thơ, giày dép và thủ trưởng sang một bên, thử bàn về văn xuôi của ông, đầu tiên là cái thời chập chững, ông viết “rất hiện thực”, viết “quanh bếp quanh nhà” như truyện ngắn Những người đốt gạch, Cống ngầm, Hương đất nung, Bến đò Lăng, Cúc tần Sông chẳng hạn, hay sau này là Bên kia sông có chất thơ và đầy tính lãng mạn nhưng không làm dáng, đánh đố như một số nhà văn cùng thời, tôi thấy một Phùng Văn Khai “cùng ăn, cùng sống, cùng ở với nhân dân”, văn của ông khi ấy có lẽ là chỉ ám ảnh hai đề tài chính đó là nông dân, nông thôn và người lính, chiến tranh, hậu chiến... Nếu nói văn là người thì quả rất đúng với Phùng Văn Khai trong giai đoạn này. Đọc văn ông chúng ta thấy được cái tươi mới, hồn nhiên của một nhà văn mới khoác áo lính và người lính mới khoác áo văn chương. Dễ yêu, dễ tin, dễ đồng cảm và vui sống...

Sau đó là Hồn quỳnh, ông vẫn giữ được chất thơ trong truyện ngắn và tính ảo diệu của một cây bút sắp chín đang muốn thể nghiệm. Và chưa dừng lại ở ma mị Hồn quỳnh, ông lao vào viết liên tiếp hai cuốn tiểu thuyết là Hư thựcHồ đồ có thể xếp vào chủ nghĩa/trào lưu hiện thực huyền ảo và hậu hiện đại. Nếu ông dừng lại ở đấy thì cái sự nghiệp viết văn cũng đã lẫy lừng lắm rồi, hai cuốn tiểu thuyết của ông tôi vẫn đánh giá cao cuốn Hư thực hơn. Nhưng “không viết văn thì còn biết làm gì”; “Cuộc đời chỉ có đánh giặc và viết văn, hết giặc rồi thì chỉ biết viết văn thôi”, đó là những câu chúng tôi hay đùa nhau bên chén rượu nhạt buổi đói cơm.

Để tìm được cái mạch nguồn tiểu thuyết dã sử/lịch sử, chắc Phùng Văn Khai cũng đã đau đáu từ lâu, điều này thấy rất rõ trong các truyện ngắn Hồn Quỳnh; Huyền thoại sông Lăng... những truyện ngắn khá hay, khơi gợi được rất nhiều điều trong lòng bạn đọc. Đặc biệt, ông vẫn dùng thủ pháp “lấy tích xưa để nói nay”, gửi gắm, cài cắm những thông điệp lịch sử cha ông đến lớp người hậu thế. Vâng, nhưng thời ấy ông vẫn chỉ dừng lại ở loại thể truyện ngắn. Bởi với lối viết ấy thì chỉ phù hợp với loại thể truyện ngắn - đòi hỏi tính cô đọng và “kiệm chữ”. Nếu vẫn dùng bút pháp ấy để đi dài với tiểu thuyết thì e rằng không hợp vì tính chất dàn trải của tiểu thuyết chương hồi. Tôi đoán rằng phút “đốn ngộ” của ông có lẽ là trên chuyến xe cùng cơ quan Tạp chí Văn nghệ Quân đội đi Quảng Trị dịp 27/7/2006. Trong các chuyến đi của các nhà văn, ngoại chuyện châm chọc, chê bai văn của người vắng mặt, thì còn chuyện gì để nói ngoài chuyện sáng tác và các trào lưu. Chuyến đi đó cũng không ngoại lệ. Sau khi thắp hương ở Thành cổ và Nghĩa trang Đường 9, đoàn trực chỉ hướng cửa khẩu Lao Bảo hành quân, chuyện nổ như ngô rang và chẳng biết ai khởi xướng, mọi người rôm rả bàn đến tiểu thuyết chương hồi. Và tôi thấy Phùng Văn Khai là người “hợp tạng” nhất với loại thể này. Quả đúng thế, sau đấy thấy ông rục rịch và đến bây giờ thì hàng loạt cuốn tiểu thuyết dã sử của ông viết theo thể chương hồi đã ra đời.

Sở dĩ phải viết dông dài như thế để thấy rằng cuốn sách Danh tướng triều Trần trong ba lần đại thắng Nguyên - Mông ra đời là có cái lý do của nó. Để làm nên cuốn sách thì có lẽ nhiều người làm được, nhưng để đặc sắc và độc đáo và in đẹp như cuốn sách các bạn đang cầm trên tay thì duy chỉ có Phùng Văn Khai. Các bạn có thể thắc mắc rằng không biết Phùng Văn Khai lấy tư liệu từ đâu để viết nên cuốn sách này? Vì khi viết tiểu thuyết dã sử thì tư liệu lịch sử chỉ như những cái móc trên tường nhà, nhà văn có thể treo lên đó một cái áo khoác, một cái quần hay một chai rượu ngoại... bởi lịch sử có vô số góc nhìn dù sự việc diễn ra chỉ có một. Và đặc biệt, đối với lịch sử của chúng ta, cái số phận dân tộc ta phải ở sát nách một dân tộc mà họ chẳng chừa bất cứ một thủ đoạn nào để nhằm đồng hóa các dân tộc lân bang, từ đốt sách chôn nho, hủy hoại các sản phẩm văn hóa đến cưỡng bức phụ nữ và cưỡng dâm văn hóa, vì thế nên để tường minh các giai đoạn lịch sử của nước nhà cũng khó lắm thay!


Cuốn sách "Danh tướng triều Trần trong ba lần đại thắng Nguyên - Mông" - Ảnh: Thúy Hạnh

Theo tôi, Phùng Văn Khai đã tìm được hướng đi của mình từ ba nguồn tư liệu chính, nguồn thứ nhất là “trong dân”, đó là những câu chuyện, huyền tích, huyền sử còn lưu truyền trong dân gian, trong kinh sách nhà chùa, qua các vị sư trụ trì... Nguồn thứ hai là “trong bia”, có thể nhiều người không biết nhưng tôi biết rằng, để làm nên những bộ tiểu tiêu thuyết lịch sử và đặc biệt là cuốn sách Danh tướng triều Trần trong ba lần đại thắng Nguyên - Mông, ông đã đi hầu khắp các đình, đền, chùa, miếu... nằm rải rác hơn nửa nước ta. Đến đấy, ông tìm trong văn bia, trò chuyện với các vị sư trụ trì, các thủ đền... Và một nguồn vô cùng lớn là “trong những người biết việc, trong chính sử”, người biết việc ở đây là những nhà sử học, nhà văn hóa và nhà văn chuyên viết truyện lịch sử. Ông đã vô cùng khôn ngoan khi “đứng trên vai những người khổng lồ” như các nhà sử học đương thời Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan, Dương Trung Quốc... các nhà văn thành công ở mảng tiểu thuyết lịch sử như Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Phạm Lưu Vũ, Vũ Bình Lục... các nhà nghiên cứu lý luận phê bình như Lại Nguyên Ân, La Khắc Hòa, Đỗ Lai Thúy... với tinh thần đối thoại và cầu thị, ông đã “lấy về cho mình” được một vốn khiến thức khổng lồ từ trong những câu chuyện và trong các tác phẩm của họ. Tất nhiên vẫn phải nhắc lại “lịch sử là những góc nhìn”, từ những gì có được, ông đã kiến tạo riêng cho mình một góc nhìn, để từ đó khái quát, lý giải, “hợp thức hóa” những gì thu nhận được và kiến giải nó thật khoa học và hợp logic.

Bạn có thể viết về những điều phi lý nhất, nhưng cái tài của bạn là phải viết làm sao cho người đọc tin rằng những điều phi lý ấy là có lý. Cuốn sách Danh tướng triều Trần trong ba lần đại thắng Nguyên - Mông không có những chi tiết phi lý, nhưng người đọc cũng đừng vội vạch vòi xem cái này, việc này, câu nói này, hành động này... có thật không. Chính sử có chép lại không? Vì như trên đã nói, bằng tài năng của một nhà văn và các cộng sự, Phùng Văn Khai đã “lấp đầy” và “kết nối” các sự kiện lịch sử, các mảng sáng tối của lịch sử để dựng nên một nhân vật Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ - người anh hùng vị quốc, vị dân; Trần Quốc Tuấn - vị thánh tướng hiền minh; Phạm Ngũ Lão - danh tướng xuất thân từ nông dân; Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật - danh tướng độc đáo triều Trần; Danh tướng Trần Khánh Dư; Trần Quang Khải - vị tướng kiệt xuất trên mặt trận ngoại giao; Lê Phụ Trần - viên dũng tướng vương triều Trần; Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản - Danh tướng thiếu niên “Phá cường địch báo hoàng ân”... dựng nên được những con người mà khi đọc đến người đọc sẽ bị thuyết phục với những kiến giải, những lập luận, những trạng huống của nhà văn đưa ra.

Lấy ví dụ điển hình như nhân vật Trần Thủ Độ, từ khi xuất hiện đến nay chắc đã có vô vàn bài viết, bài nghiên cứu và các điểm nhìn khác nhau của bao người đi trước, kể cả những người cùng thời với ông cũng không thể biết rõ hết những việc ông làm, và chắc chắn rằng có những việc ông “làm trong bóng tối”. Nhưng đến Phùng Văn Khai, ông muốn kiến giải một điều rằng dù ai khen ai chê, ai nói đúng ai nói sai nhưng cái cốt lõi, cái tầm nhìn và tấm lòng của Trần Thủ Độ vẫn là một lòng vì nước vì dân. Vì nước vì dân nên ông đạo diễn việc chuyển giao Vương triều nhà Lý đã suy sang Vương triều nhà Trần. Vì nước vì dân mà ông không ngại ngần làm những việc mà người đời có thể cho là “vô đạo”. Vì nước vì dân mà ông có thể coi tình yêu và một vài mạng người như cỏ rác. Ông biết hy sinh những việc nhỏ để hoàn thành cái đại cuộc. Nếu không phải là Trần Thủ Độ, không phải là những hành động, suy nghĩ và tính cách của Trần Thủ Độ thì liệu vương triều nhà Lý có giải quyết được nạn “ngoại tộc” lũng đoạn triều chính, anh hùng hảo hán cát cứ như Quách Bốc, Đoàn Thượng... và ba lần đánh tan giặc Nguyên - Mông? Để có được những chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử, liệu bên Trần Thủ Độ có một “quân sư” nào không? Bởi không ít giả thuyết nói rằng, khi mới vào cung, Trần Thủ Độ là người mù chữ!?  Thì đành, cũng nhiều lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cũng đều mù chữ nhưng họ vẫn có những chiến công hiển hách? Đúng thế, nhưng nếu ta xét đến hoàn cảnh xuất thân và quá trình “nhập cung” của Trần Thủ Độ thì sẽ thấy rằng, cái việc mù chữ sẽ là một cản trở vô cùng lớn cho bản thân ông vì ông không phải là lãnh tụ khởi nghĩa. Ông dấn thân vào chốn cung đình, vào đỉnh cao của quyền lực và trí tuệ của thời đó.


Nhà văn Phùng Văn Khai phát biểu tại Hội thảo sách
"Danh tướng triều Trần trong ba lần đại thắng Nguyên - Mông" - Ảnh: Thúy Hạnh

Để giải quyết được những thắc mắc của bạn đọc, Phùng Văn Khai đã dày công tìm hiểu trong chính sử, dã sử, văn bia... về thân thế và sự nghiệp của một nhân vật đặc biệt, đó là Phùng Tá Chu. Phùng Tá Chu là con của Tả nhai đạo lục Phùng Tá Thang (1161-1253) người đứng đầu các tang thống đầu triều Trần. Phùng Tá Chu là người giữ chức Thái Phó của lưỡng triều và nếu chúng ta nói Trần Thủ Độ là tổng đạo diễn cho sự chuyển giao Vương triều nhà Lý sang nhà Trần thì quan Thái Phó lưỡng triều Phùng Tá Chu không là “phó đạo diễn” thì cũng là một trong những nhân vật mang tính quyết định trong việc chuyển giao này. Vì là con của vị đứng đầu giới tăng thống, người trong các buổi tế lễ chỉ đứng sau vua, hẳn Thái phó Phùng Tá Chu phải là người đức rộng, tài cao, văn võ toàn tài nên mới được gia tộc họ Trần trọng vọng như vậy? Và khi đọc đến những kiến giải của nhà văn về hai cha con Phùng Tá Thang, Phùng Tá Chu, người đọc dễ dàng chấp nhận và “dễ tin” hơn với những gì mà Trần Thủ Độ và Vương triều nhà Trần đã đạt được.

Nhiều khi người viết bài này cứ vẩn vở trong đầu với câu hỏi lớn: Nếu sau khi Thái hậu Dương Vân Nga chuyển giao quyền lực cho Lê Đại Hành và sau đấy là giặc Tống tràn sang, nếu Lê Hoàn không chém được tướng Hầu Nhân Bảo, bắt sống tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về kinh đô Hoa Lư từ đó mở ra một triều đại Tiền Lê; Nếu nhà Trần không ba lần đại thắng quân Nguyên - Mông... thì hậu thế sẽ nghĩ gì và viết gì về hai triều đại ấy? Và nếu như Hồ Quý Ly hiển hách chiến thắng giặc Minh thì hậu thế sẽ viết gì và nghĩ gì? Vẫn biết rằng lịch sử không có chữ “nếu”, mọi việc đã diễn ra như nó vốn có. Âu đó cũng là “ý trời” và “lòng dân”. Phải chăng Lê Hoàn và Trần Thủ Độ đã đúng khi hòa hợp được lòng dân? Còn trời thì cao xanh lắm, làm sao mà biết được ý của trời ra làm sao?
 

NHÀ VĂN NGUYỄN THẾ HÙNG